Thursday, October 17, 2013 trang chính || lưu trữ || liên lạc
Cũng như Tướng Trần Văn Hai, Tướng Lê Quang Lưỡng cũng là một đảng viên ĐVQDĐ bí danh Trí Đức và pháp danh Thiện Chánh. Tướng Lê Quang Lưỡng sinh ngày 01-6-1932 tại B́nh Dương. Đ/chí xuất thân khóa 4 Thủ Đức cùng khóa với Tướng Ngô Quang Trưởng. Sau khi tốt nghiệp, đ/chí đă gia nhập vào Binh Chủng Nhảy Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Qua quá tŕnh chiến đấu từ cấp Trung Đội Trưởng đến Tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đ/chí đă chứng tỏ là một sĩ quan tài ba, mưu lược và anh dũng. Đ/chí đă lập nhiều chiến công và hầu hết cấp bậc đều được vinh thăng ở chiến trường. Tháng 6/1972. đ/chí được vinh thăng cấp Chuẩn Tướng. Tháng 10/1972, đ/chí được bổ nhiệm chính thức làm Tư lệnh nhảy dù và cùng chiến sĩ dưới quyền chiến đấu cho đến ngày 30-04-1975. Sau 30-4-1975, đ/chí rời khỏi đất nước trong niềm đau khôn tả; sau một thời gian ngắn ổn định gia đ́nh, đ/chí đă kết hợp với các anh em trong Đảng và ngoài Đảng mưu sự về Nước chống bạo quyền Việt Cộng. Đ/chí đă âm thầm với một số chiến hữu về đến biên thùy Đông Dương nhưng trước những âm mưu đen tối của Chính quyền Thái Lan bấy giờ nên không thể tiến hành công cuộc tại đất Thái và đ/chí trở lại Hoa kỳ tiếp tục cùng các anh em trong Đảng mưu tính những hướng đấu tranh khác. Trong những lần hội họp Đảng h́nh ảnh Anh vẫn hiên ngang, từ tốn góp ư, bàn bạc. Anh em luôn nhớ những lời anh nói: “Chuyện chính trị là phần các anh em trong Đảng lo, tôi và anh em khác lo phần quân sự.” “Việt Cộng phải bị diệt thôi.” “Chúng ta không được quyền bỏ cuộc, chúng ta phải hưng Đảng để cứu Nước…” Ngày 21-9-2005 Đ/chí đă vĩnh viễn ra đi để lại bao ngậm ngùi và thương tiếc tột cùng cho gia đ́nh, Đảng và Đồng đội. Nhớ Anh, tiếc Anh ghi lại một vài h́́nh ảnh ngày cùng anh em mưu lo việc nước và các bài viết khác nói về Anh.
http://www.youtube.com/watch?v=u97gQWtoZWs http://www.youtube.com/watch?v=vkdt9EZpeL0 Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng
Tướng Lê Quang Lưỡng sinh năm 1932 quê tại tỉnh B́nh Dương. Thời niên thiếu, học hết bậc Tiểu học tại tỉnh nhà ông lên Sài G̣n theo học tại Trường Trung Học Petrus Kư. Sau khi lấy bằng Thành Chung ông gia nhập vào quân đội và xuất thân Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cùng khóa với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Đại Tá Lê Văn Phát…Ngay khi vừa măn khóa vào ngày 1 tháng 06 năm 1954 ông t́nh nguyện sang Binh Chủng Nhảy Dù và được gởi ngay ra Bắc bổ sung cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với chức vụ Trung Đội Trưởng của Đại Đội 52 ND. Từ đó ông đă trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp Trung Đội Trưởng (Thăng cấp Trung Úy tháng 6/1956), Đại Đội Trưởng (Thăng cấp Đại Úy tháng 11/1963), Ban 3 Tiểu Đoàn rồi Tiểu Đoàn Phó. Năm 1965 Ông được đi du học về “Tác Chiến Trong Rừng Núi Śnh Lầy” tại Mă Lai Á. Tại quân trường ông đă tŕnh bày chiến thuật tấn công và tác chiến theo quan điểm của riêng ông được tất cả các Huấn luyện viên đều chú ư và thán phục. Đến tháng 9/1965, về nước với bằng tốt nghiệp Thủ Khoa, ông được Tướng Dư Quốc Đống chỉ định nhiệm vụ thành lập và giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2ND tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Trong buổi lể xuất quân của TĐ2ND vào tháng 1/1966, Đại Tá Lư Thái Như Chỉ Huy Trưởng TTHL/QG Vạn Kiếp đă Chủ Tọa và trao gắng cấp bậc Thiếu Tá cho Ông. Sau buổi lể xuất quân, Tiểu Đoàn 2 ND về trấn giữ ṿng đai Biệt-Khu-Thủ-Đô vừa chỉnh trang đơn vị, vừa tái huấn luyện tại chỗ. Chính ông đă đứng ra hướng dẩn tất cả Sĩ quan cũng như binh sĩ về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến của Nhảy Dù và ngay sau đó TĐ2ND đă tham chiến tại khu phi chiến, tại đồi 1416 trên đỉnh Ngok Wank quân khu II, tại khắp các mặt trận ở các quân khu và đă từng gây kinh hoàng cho các đơn vị CS không thua bất cứ một đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu nào khác. Cuối năm 1967, ông sang Okinawa du khảo và học hỏi về Chiến thuật phản t́nh báo và chống chiến tranh du kích. Ngày 25/1/1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù thay thế Trung Tá Hồ Trung Hậu, đánh đuổi quân Cộng Sản ra khỏi Huế và Quảng Trị trong trận chiến “Tổng Công Kích năm Mậu Thân” của CS. Sau trận nầy ông được thăng cấp Trung Tá tại mặt trận vào tháng 4/1968. Và cũng trong chức vụ LĐT/LĐIND ông được thăng cấp Đại Tá tại mặt trận vào tháng 9/1969 sau các cuộc hành quân tại Tây Ninh để tiêu diệt các đơn vị CS lẩn khuất trong khu vực Chiến Khu C và đưa chiến trường ra khỏi lảnh thổ Quân Khu III qua bên kia biên giới. Kể từ đây, ông đă tham gia hầu hết các cuộc hành quân làm nên lịch sử của SĐND, như là Chiến dịch B́nh Tây Kampuchea 1970, Hành Quân Lam Sơn 719 trên đất Lào vào tháng 02 năm 1971, giải vây An Lộc tháng 4/1972, Hành Quân Lam Sơn 72 trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Trị vào tháng 06 năm 1972, và cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức vào tháng 08 năm 1974. Trong ba cuộc hành quân đầu, Tướng Lưỡng đă tham dự với tư cách Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong các cuộc hành quân về sau Tướng Lưỡng đă điều quân với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù. Trong trận chiến giải vây An Lộc năm 1972, tài điều binh của ông đă được đưa vào chương tŕnh nghiên huấn của Trường Quân Sự Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy & Tham Mưu) ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ sau hai danh tướng Tôn Tử, một thiên tài quân sự nổi tiếng của Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc (722 – 480 TCN) và Erwin Rommel (1891 – 1944 có biệt danh là "the Desert Fox") một tướng lảnh lừng danh của Đức Quốc Xả vào đệ nhị thế chiến. Trong trận chiến nầy ông đă phối hợp chiến thuật phân tán mỏng các đơn vị Nhảy Dù để bao vây, dùng các Tổ Khinh Binh đột kích vào các chốt của CS rồi dùng Phi Pháo và Pháo Binh tiêu diệt địch để phá vở chiến thuật Chốt Kiềng của CS tại suối Tàu Ô cũng như tại cửa ngỏ Sóc G̣n của An Lộc. Đại Tá Lê Quang Lưỡng đă áp dụng yếu tố bất ngờ một cách táo bạo và thành công khi đổ quân Nhảy Dù xuống Sóc Ton Cui cạnh Đồi Gió để làm đầu cầu, rồi tiến vào An Lộc. Ông cũng đă nghi binh đánh lạc hướng địch quân khi liên lạc bằng hệ thống âm thoại báo cho Tướng Hưng rằng ông sẽ không vào An Lộc mà ngày mai Quân Đoàn sẽ đưa một đại đơn vị nhảy xuống phía Bắc An Lộc tấn công vào Đồi Đồng Long vào giải cứu các đơn vị bị bao vây. Ông được Tướng Minh Tư Lịnh Quân Khu III đặt trọn niềm tin và giao cho Ông trọn quyền quyết định sách lược. Với kinh nghiệm lăo luyên trên chiến trường của một “Quân Đội con nhà nghèo” với sự yểm trợ tích cực của người bạn đồng minh, ông đă sử dụng tài t́nh và hiệu quả lối đánh thần tốc của các Chiến Binh Nhảy Dù với hỏa lực vô tiền khoáng hậu của phi pháo và các pháo đài bay B52 để tiêu diệt các đơn vị CS, để giải vây cho các đơn vị thuộc quyền, để mở rộng ṿng đai và rồi hoàn toàn giải tỏa An Lộc. Tháng 6 năm 1972, Đại Tá Lê Quang Lưỡng được đề cử chức vụ Phụ-Tá hành-quân cho Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù là Trung Tướng Dư Quốc Đống trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Tri. Cuối tháng 8 năm 1972, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn Tướng, và sau đó ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó, xử lư thường vụ chức vụ Tư Lệnh SĐND. Lúc bấy giờ Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù đặt tại căn cứ Hiệp Khánh, cách Huế 17 km về phía Bắc. Tháng 11 năm 1972, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng chính thức được chỉ định làm Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng là vào lúc VNCH đang đi vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. Sư Đoàn Nhảy Dù do ông chỉ huy đă phải đương đầu với bao nhiêu thử thách từ phía Cộng quân cũng như từ phía Đồng Minh và nội bộ của VNCH. Nhưng ông luôn giữ đúng phong cách của một vị chỉ huy, thi hành trách nhiệm được giao phó một cách hoàn hảo và suốt đời tận tụy hy sinh cho tổ quốc đến những ngày cuối tháng 4/1975. Trận đánh để đời sau cùng của ông là trận Thường Đức từ tháng 8/1974 đến tháng 11/1974 ông đă áp dụng chiến thuật Xa Luân Chiến để 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù luân phiên giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai SĐ324B, SĐ304 và một Trung Đoàn của SĐ2CSBV cùng các lực lượng địa phương. Năm 1975 vào những ngày tháng lịch sử của VNCH, lệnh từ trung ương bỏ quân Đoàn I và rút Sư Đoàn Nhảy Dù về Sài G̣n. Một tin chấn động cho toàn quân, toàn dân và sự kinh hoàng tột độ ấy đă mở đầu cho sự tan ră ồ ạt sau đó. Hơn thế nửa, kể từ ngày SĐND được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy chiến thuật binh chủng Nhảy Dù, quyền xử dụng các chiến binh Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh. Các đơn vị Nhảy Dù đă bị xé ra từng mănh. Mỗi đơn vị một nơi rồi lần lược bị tan hàng. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Tướng Lưỡng di tản sang Hoa Kỳ, với nỗi ngậm ngùi: “Sầu hận của tim ta ai biết được. Người tươi vui ta măi măi căm hờn”. Và sau đó ông định cư tại thành phố Hampton tiểu bang Virginia, đến năm 1979 ông cùng gia đ́nh di chuyển về California thành phố Baker Field cho đến cuối đời. Trong khoảng thời gian từ 1976 đến những năm 1982 ông có tham dự vào một số sinh hoạt trong nỗ lực trở lại VN tổ chức lực lượng kháng chiến nhưng tiếc rằng Trời đă không chiều ḷng người. Sau này ông lui dần vào im lặng và ít khi lên tiếng. Ông cũng thường sinh hoạt và gần gũi với Gia Đ́nh Mũ Đỏ Việt Nam từ năm 1980. Năm 1990 ông cùng Tướng James B.Vaught Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành của Gia Đ́nh Mũ Đỏ Việt Nam trên đại lộ Constitution, Washington D.C cùng với các đơn vị Nhảy Dù của 32 quốc gia bạn, nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Nhảy Dù Hoa Kỳ. Nhảy Dù là đơn vị của QLVNCH đầu tiên và duy nhất từ trước cho đến thời điểm nầy, được mời chính thức rước ngọn cờ Vàng ba sọc Đỏ giữa ḷng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Hai bên đường dân chúng Hoa Kỳ và đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản, đón tiếp và cổ vơ nồng nhiệt. Ngày 21/9/2005 Tướng Lê Quang Luỡng đă qua đời tại Bakefield California v́ chứng bệnh Gan, thọ 73 tuổi, để lại nhiều luyến thương sâu xa cho đoàn quân Mũ Đỏ. Đến phút cuối, ông nhất định không cho phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lên “quan tài của một bại tướng lưu vong”, ông cũng trăn trối không nhận ṿng hoa đưa đám, chỉ nhận tiền mặt để gởi về quê nhà giúp các đàn em thương tật. Tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm và “Huynh Đệ Chi Binh” của người Anh Cả Mũ Đỏ không ai có thể cao hơn thế được. Tại San José California, một Cựu Chiến Binh Nhảy Dù - Định Thế 405 - đă thương khóc ông:
Hồi Kư của Thiếu Tướng LÊ-QUANG-LƯỠNG
Thiên Thần Mũ Đỏ Ai C̣n Ai Mất Tôi vẫn nhớ rơ như mới nh́n thấy hôm qua những khuôn mặt, giọng nói tác phong của những anh em Dù đă cùng tôi vào sinh ra tử. Thiếu Tá Thanh Tiểu đoàn 8 mà đồng đội của người Tiểu Đoàn Trưởng nầy thường gọi là Thành Râu. Anh em chúng tôi có Thiếu Tá Châu Lùn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1, Thiếu Tá Hạnh, Hào Hoa Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Thiếu Tá Trang Trĩ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 nổi nóng mặt đỏ gay, Thiếu Tá Lô Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7, biệt danh là Lô Lọ Rượu. Anh em chúng tôi c̣n có Cậu Út Biên Ḥa hay cậu "Bảy T́nh" Mười Lựu Đạn tức Trung Tá Thành, Tiểu Đoàn 6, Trung Tá Trần Đăng Khôi Lữ Đoàn 2 tài đức song toàn. Thiếu Tá Đường TĐ9, thích làm thơ t́nh lăng mạn, gọi là Đường Thi Sĩ, anh em chúng tôi có Thiếu tá Hồng Thu, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 16 gọi Cô Thu. Chúng tôi có 2 Ngọc, Ngọc Long Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 và Ngọc Nga, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 4, Làm sao anh em Dù chúng tôi quên được, chúng tôi có 2 người bạn anh hùng, mỗi người chỉ có một mắt. Trung Tá "Bùi Đăng" trong thẻ quân nhân không phải họ "Bùi" cũng chẳng có tên "Đăng", tên anh là Bằng, Anh chỉ có một mắt. Nhưng những chiến sĩ của anh gọi anh một cách âu yếm là Bùi Đăng. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 2 cũng chỉ có một mắt từ ngày c̣n là Đại Đội Trưởng Tiểu Đoàn 5, anh em Dù gọi là Hiệp sĩ Mù, tội nghiệp Sơn đă hy sinh trong trận chiến sau cùng tại mặt trận Phan Rang. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù của chúng tôi, Hiệp sĩ mù của Thiên thần mũ đỏ không xử dụng cùng một loại vũ khí như Hiệp sĩ mù của phim ảnh và tiểu thuyết. Nhưng oai phong người Hiệp sĩ của Quê Hương ta chẳng thua sút sự hào hiệp của người trong truyện. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù, chúng tôi có Bố Già. Làm sao quên Bố Già Lương Ruột Ngựa. Đỉnh Tây Lai, Bố già Đại Tá Lê Văn Phát, người tử thủ Khánh Dương, người lính già có mặt hầu hết những trận lớn của Quê Mẹ? Bố Già Lữ Đoàn 3? Đúng, chúng tôi có Bố Già đó. Tháng 6/1972, sau trận B́nh Long, tôi được trả về Sư Đoàn Dù, ít lau sau SĐ Dù được đưa ra Đà Nẵng để tăng phái cho Quân Đoàn I. Lúc đó tôi là Lữ Đoàn Trưởng LĐ1 Nhảy Dù. Cùng với LĐ1 ra vùng I có LĐ2 và LĐ3. Thời gian nầy, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù. Sự phân phối các đơn vị Dù tại Quân Đoàn I lúc ấy như sau: 2 Lữ Đoàn ở phía Nam Đèo Hải Vân. Tháng 9/1972, tôi được bổ nhiệm làm phụ tá hành quân Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù. Vào tháng 8 năm đó, Trung Tướng Dư Quốc Đống bị bệnh, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư Đoàn được chỉ định đảm nhận Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, c̣n Đại Tá Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn th́ vừa tử nạn phi cơ, do đó tôi được đảm nhận trách vụ xử lư thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù một cách không chính thức. Cuối tháng 8, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi tôi vào Dinh Độc Lập để làm lễ tăng chức Chuẩn Tướng cho tôi, và sau đó tôi được bổ nhiệm Tư Lệnh phó, xử lư thường vụ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đóng tại căn cứ Hiệp Khánh, cây số 17 Bắc Huế. Đến tháng 11/1972, tôi chính thức nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, thay thế Trung Tướng Đống từ nhiệm v́ lư do sức khỏe. Khoảng thời gian 72 đến 75 ải địa đầu của Tổ Quốc của ta không phải là vùng đất b́nh lặng, Quảng Trị, Thạch Hăn, Chu Lai, Cố Đô Huế. Những danh xưng đủ nói lên những trời giao động. Những người lính chiến được đồng bào gọi một cách âu yếm là "Thiên Thần Mũ Đỏ". Trong suốt thời gian máu lửa đó đă có mặt khắp cùng trên những vùng đất ải địa đầu, cùng anh em quân nhân thuộc các quân binh chủng khác, mang lại cho đồng bào, tuy không phải sự b́nh yên tuyệt đối cũng là một t́nh h́nh khả quan. Năm 1975, vào những ngày tháng Lịch Sử, chúng tôi đứng vững vùng I. Đập những nhịp tim tin tưởng, anh em chúng tôi, một mặt nh́n bao quát t́nh h́nh chiến trường khắp nước, một mặt theo dơi mọi tiến thoái của các đơn vị đối phương trong vùng, tay cầm súng sẵn, chờ địch quân. Thói quen tiến vào chỗ chết, thói quen chấp nhận trận địa mười thua một ăn mà vẫn chiến đấu oai hùng, làm cho anh em Dù, mặc dù tin tức giao động đến từ bốn phía, vẫn tiếp tục sẵn sàng chiến đấu, tiếp tục cố gắng. Lệnh của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi Sư Đoàn Dù về SàiG̣n hiện ra với tôi, bởi đó như một chấn động. Tôi chờ đợi mọi thứ trong tư thế sẵn sàng. Đợi đối phương ào ạt vượt sông Thạch Hăn, đợi chiến xa địch đến đây, miền Trung kiêu hănh từ những vùng rừng rậm Nam Lào. Nhưng tôi không chờ đợi được điều đó. Lệnh di chuyển SĐ Dù về SàiG̣n, lệnh không phải chỉ nghe một phía mà từ mọi hướng. Ngày 10.03.1975, Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuộc. 11.03.1975 Ban Mê Thuộc thất thủ. Tổng Thống Thiệu gọi Trung Tướng Trưởng vào SàiG̣n nhận chỉ thị. Lệnh khủng khiếp, lệnh làm choáng váng, làm tan nát, đó là "Bỏ vùng I". Dường như muốn cho lệnh tổng quát đó được thi hành chính xác, Tổng Thống Thiệu đ̣i Trung Tướng Trưởng phải tức khắc cho rút Sư Đoàn Dù về SàiG̣n ngay. Cho chắc ăn, SàiG̣n qua lệnh rút Sư Đoàn Dù về, muốn trói tay Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I. "Trói tay" là một h́nh ảnh dễ hiểu nhưng có lẽ không đủ nghĩa. SàiG̣n đă lấy mất thanh gươm và chặt hết một cánh tay, cánh tay cầm gươm của Tướng Trưởng khi đối phương bắt đầu tiến tới. Chỉ sau vài chục giờ sau khi lệnh Tướng Trưởng trả Dù về SàiG̣n, công điện tối mật của Tổng Tham Mưu do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu kư gởi cho Tư Lệnh Sư Đoàn Dù hạ lệnh toàn bộ Sư Đoàn Dù rời khỏi miền Trung không chậm trễ. Lúc đó tin Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Quân Đoàn I cũng bắt đầu loan ra. Ngày 17/03/75, sau khi đă thực hiện đầy đủ những giải pháp kỹ thuật cho các anh em Dù rời miền Trung, chuyển vận, tiếp liệu, an toàn khi ra đi v.v...tôi lên gặp Trung Tướng Trưởng để chào từ giă. Tôi nói với Trung Tướng Trưởng về việc Thủy Quân Lục Chiến cũng sẽ ra đi. Tôi cũng nói lên những lời hàm ư chia sẻ ưu tư của Trung Tướng về sự "Trói tay", sự tước bỏ mọi hỗ trợ trước một trận đánh lớn. Khuôn mặt Tướng Ngô Quang Trưởng, vẫn sẵn ưu tư, càng hiện ra ảm đạm. Ông chỉ cầm tay tôi nói:"Cảm ơn anh và các Anh em Nhảy Dù đă giúp tôi rất nhiều trong những năm qua". Anh em quân nhân Nhảy Dù nghĩ rằng ḿnh được di chuyển toàn bộ về SàiG̣n. Các Sĩ quan chỉ huy từ Đại Đội cho đến Lữ Đoàn được loan báo là họ được di chuyển về thủ Đô VNCH. Tướng Trưởng được lệnh "trả Sư Đoàn Dù về SàiG̣n". Lệnh tôi nhận được cũng rất rơ rệt: Đưa Sư Đoàn Dù về SàiG̣n. Có thể những sử học trong tương lai cũng tóm tắt sự di chuyển của anh em chúng tôi bằng những ḍng chữ "Tướng Thiệu, để chặt tay Tướng Trưởng, để gây cho Dân, Quân miền Trung sự kinh hồn tột độ, mở đầu cho tan ră ồ ạt, hạ lệnh rút Sư Đoàn Dù ra khỏi tuyến đầu". Sự việc không hoàn toàn đơn giản như thế. Lệnh rút Sư Đoàn Dù về SàiG̣n chỉ là một lệnh bề mặt mà chiều sâu là phân tán Sư Đoàn Dù. Ông Thiệu áp dụng kế hoạch "Bẻ bó đũa" làm tan tành một đoàn quân bách chiến, một Binh chủng oai hùng, xô đẩy những Thiên Thần vào hỏa ngục. 12 Tiểu Đoàn Trưởng trên 18 linh hồn của đoan quân Mũ đỏ hoặc gục ngă ở chiến trường sắp đặt, hoặc rơi vào tay địch, có cả một Lữ Đoàn tan thành mây khói, có cả một Lữ Đoàn đánh đoạn hậu bảo vệ cho đồng bào di tản và tới phiên ḿnh quân trải trên một diện tích rộng lớn, chỉ xuống tay được mấy trăm con. Lệnh tôi nhận được là chia Sư Đoàn Dù ra làm hai nhánh, một đi tàu thủy và một do không vận. Lữ Đoàn 1 và 2 di chuyển bằng phi cơ của Không Lực VNCH. Lữ Đoàn 3 di chuyển bằng tàu HQ-404 của Hải Quân VN. Lữ Đoàn 1 và 2 đến điểm hẹn như ấn định, nhưng Lữ Đoàn 3 không được đưa đến nơi. Khi HQ-404 đến gần Nha Trang th́ Hạm Trưởng nhận được lệnh đổ anh em xuống Nha Trang. Tôi chưa kịp ngạc nhiên, nhưng ư tưởng thắc mắc v́ sao Tổng Thống Thiệu nói đưa toàn bộ Sư Đoàn Dù về SàiG̣n để rồi phân tán một phần đi nơi khác. Dù vậy, không bao giờ tôi quên được khuôn mặt, mắt liếc xéo, nụ cười khoái trá, giọng nói chứa đựng thỏa măn, toàn bộ khuôn mặt toát ra một sự khoan khoái kỳ lạ. Cựu Tổng Thống nh́n tôi với tia mắt kỳ lạ đó với nụ cười ở cuối môi, ông nói: "Theo anh liệu Trung Tướng Trưởng có giữ nổi Quân Đoàn I khi tôi rút Sư Đoàn Dù về đây không?". Mặc dù lệnh lạc lung tung, bảo về SàiG̣n lại đổ xuống Nha Trang, mặc dù bảo về dưỡng quân lại được ném ra mặt trận, là một quân nhân kỷ luật, ư thức được rằng sức mạnh đến từ kỷ luật sắt thép, anh em Lữ Đoàn 3 xuống Cầu Đá Nha Trang là lên đường đi chiến đấu ngay. Đại Tá Lê Phát, người nắm Lữ Đoàn 3 cũng là người có biệt hiệu "Bố Già" đặt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn 3 là nút chặn địch ở Khánh Dương giúp cho các Đơn vị của Quân Đoàn II rút lui an toàn. Biết rơ sự oai hùng của các Thiên Thần Mũ Đỏ của QLVNCH, Văn Tiến Dũng tung 2 Sư Đoàn với quân số 6 lần, là những SĐ 320 và SĐ 10 đánh bọc ngang hông. Lữ Đoàn 3 Dù b́nh tĩnh và oai hùng chiến đấu, quất cho quân địch tổn thất nặng nề. Lữ Đoàn 3 c̣n ở Khánh Dương, địch không thể đi lên một bước. Ngày 28/03, v́ quân số đối phương đông gấp 10 lần, nên không thể ngăn chặn vĩnh viễn, v́ lệnh SàiG̣n hay v́ một lư do nào khác, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă ra lệnh cho Đại Tá Phát rút Lữ Đoàn 3 từ Nha Trang vào Phan Rang, sau đó lệnh lại được đưa xuống là bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các thành phần yểm trợ th́ rút về Phan Rang, c̣n 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 th́ rút lên núi trấn giữ ở đó. Tại sao lại đưa 3 Tiểu Đoàn Dù lên núi? Nghe tin này tôi vội vă bay ra Phan Rang. Tư Lệnh Nhảy Dù trên nguyên tắc và bởi định nghĩa là người chỉ huy binh chủng Nhảy Dù. Nếu không được tham dự vào việc hoạch thảo chiến lược, th́ ít nhất trách nhiệm chiến thuật phải được trọn vẹn. Tôi không được Tổng Tham Mưu hay Phủ Tổng Thống tham khảo một lần nào về chiến lược lui quân, kể từ ngày binh chủng Dù được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy, chiến thuật binh chủng Dù, quyền xử dụng anh em quân nhân Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của Tư Lệnh Dù. Anh em binh chủng tôi đặt chặt và giao cho người nầy một mảnh, người kia một miếng. Khi nh́n thấy chiến hữu của tôi bị vất vả cùng cực, tôi chạy ngược chạy xuôi đi can thiệp. Trong những giờ chạy đôn chạy đáo, ư tưởng ghê gớm lóe lên trong tôi, "Phải chăng một ác thần đang làm tê liệt hàng vạn tinh binh trước khi mở ra cuộc hỏa thiêu thành La Mă?". Tôi bay ra Phan Rang gặp ngay Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi lúc đó là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, đang chỉ huy Bộ tư Lệnh tiền phương tại đây. Nơi đó tôi cũng gặp Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân. Tôi yêu cầu cho trực thăng lên núi bốc 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 về Phan Rang. Tướng Nghi chấp thuận, chỉ thị Tướng Sang cho Không Quân giúp. Anh em trực thăng đă rất nhiệt tâm và can đảm trong việc bốc hơn 1000 người bỗng nhiên bị ném lên một ngọn núi chơ vơ mà không một lư do chiến lược hay chiến thuật nào giải thích được cả. Lữ Đoàn 3 trong tư thế vững vàng, sẵn sàng chiến đấu nghiêm chỉnh trong vị trí đứng đắn. 30.03.1975, tôi tạm yên tâm, bay về SàiG̣n. Vừa đặt chân đến Thủ Đô, tôi được lệnh Tổng Tham Mưu cho Lữ Đoàn 2 ra Phan Rang thay thế Lữ Đoàn 3, Lữ Đoàn 3 về SàiG̣n tái chỉnh trang Đơn vị. Tôi muốn hét to lên: Tăng cường chớ sao lại thay thế? Mặt trận đang nặng, rút một đập ngăn nước lớn đi, đập mới chưa dựng xong, nước sẽ ùa tới mang lụt lội tàn phá tan tành! SĐ 310 và 320 của đối phương đang di chuyển nhanh về vùng 3 chính vào lúc đầu tháng tu nầy. Sư Đoàn 10 của địch càn quét Nha Trang. Mặt Bắc là Sư Đoàn 10, Nam là các SĐ 310 và 320, tăng chúng ào ào, tù nhân thả ra do bàn tay bí mật từ các khám đường, một số quân nhân của một binh chủng bị mất cấp chỉ huy sinh rối loạn, chính trong biển hỗn loạn và tan vỡ đó, người ta ném Lữ Đoàn 2 Dù, những đứa con thân yêu ruột thịt của tôi, những bằng hữu vào sinh ra tử, nằm gai nếm mật của tôi trọn lượng ném vào khoảng trống, viên ngọc quư ném vào đại dương giông băo. 3 Tiểu Đoàn 3, 7, và 11 của Lữ Đoàn 2 chiến đấu như những con cọp bị vây hăm, dường như sợ cái đại dương hỗn loạn đó chưa đủ làm thành một hỏa ngục rực lửa, người ta không ai c̣n nhớ đến việc tiếp tế cho những Thiên thần Mũ Đỏ từ trời cao đáp thẳng xuống địa ngục A Tỳ. Anh em Lữ Đoàn 2 mặc dù t́nh h́nh rối loạn, mặc dù tin tức giao động từ bốn phía, mất Quân Đoàn I, Quy Nhơn thất thủ, Nha Trang thất thủ, anh em vẫn chiến đấu, cho đến viên đạn cuối cùng. Tiểu Đoàn 6 sau những trận oai hùng được lệnh Tổng Tham Mưu rút khỏi Phan Rang, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân của Đại Tá Biết thay thế. Nhưng Tiểu Đoàn 3 chỉ 100 anh em được trực thăng bốc về Phan Thiết, Tiểu Đoàn 11 mất liên lạc toàn diện. Tôi mất Thiếu Tá Thành, con chim đầu đàn của Tiểu Đoàn 11 và Đại Tá Nguyễn Thu Lương, mà anh em chúng tôi thường gọi một cách thân thương là "Lương Ruột Ngựa", con chim đầu đàn của Lữ Đoàn 2 cũng tại vùng đất lửa này. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cũng lọt vào tay địch ở Phan Rang. Chiếc đũa Lữ Đoàn 2 bị bẻ găy, chiếc đũa Lữ Đoàn 3 bị ném tại Khánh Dương, bốc về Phan Rang, lửa hỏa lực nung nấu mệt nhừ. Ngày 8.4.1975, viên Trung Úy Không Quân tên Trung ném bom Dinh Độc Lập, về mặt dân sự, một số chính khách đối lập bị bắt giữ. Nhưng phản ứng của Tổng Thống Thiệu là đưa "chiếc đũa Lữ Đoàn 1" chiếc đũa c̣n nguyên vẹn của bó đũa bị tách rời từng chiếc, ra tăng phái Quân Đoàn III, dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ư tưởng rơ rệt trong tôi, và cả bây giờ là Tổng Thống Thiệu sợ đảo chánh nên phân tán các đơn vị Nhảy Dù ra các nơi. Tôi là Tư Lệnh Nhảy Dù nhưng tay chân hoàn toàn bị chặt hết. Ư tưởng làm sống dậy h́nh ảnh, một ngày tại vùng I, ở Cố Đô Huế, tôi nói với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: "Trung Tướng cứ để anh em tôi về SàiG̣n làm một chuyến, thử xem sao?" Trung Tướng lắng nghe lặng lẽ. Tôi hiểu Tướng Trưởng cũng như anh em chúng tôi là những người lính đơn thuần, chỉ lấy việc bảo vệ Quê Hương làm quan trọng, không màng ǵ tới danh vọng và chính trị, chúng tôi không có thói quen chọn lựa những quyết định không liên quan trực tiếp đến chiến trường. Cựu Tổng Thống Thiệu có nghe phong phanh về những toan tính đó không? Trong mọi trường hợp, lúc đó tôi nghĩ là ông phân tán anh em chúng tôi v́ nghi ngờ. Bây giờ tôi c̣n muốn nghĩ như thế. Trừ khi ông muốn bẻ tan bó đũa v́ lư do khác - Lư do khủng khiếp - Tôi không muốn nghĩ tới lư do đó. Tôi muốn nghĩ đến một sự nghi ngờ. Như một sự xua đuổi ư nghĩ ghê gớm kia. Lữ Đoàn I ra Quân Đoàn III trấn giữ Xuân Lộc, tăng phái cho Sư Đoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn là chận đứng bước tiến của VC vào SàiG̣n. Anh em Dù của Lữ Đoàn 1 đă oai hùng làm tṛn nhiệm vụ, địch quân không tiến thêm được một tấc đất. Đoàn quân viễn chinh của Vơ Nguyên Giáp, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, bị khựng lại ở ngay cửa ngơ của SàiG̣n. Từng đợt xung phong có chiến xa và pháo binh yểm trợ, tất cả đều bị đánh bật, tiến lên là phải lùi lại, tấc đất đánh được buổi sáng, buổi chiều anh em Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao tranh, Sư Đoàn 18 được lệnh rút về Biên Ḥa, Lữ Đoàn 1 chiến đấu giữ vững trận tuyến, từ đầu tới cuối. Sau chót đến đêm 28 rạng 29/04, Bộ Đội CS tấn công Lữ Đoàn 1 Dù ở Lăng Can, Bà Rịa đánh đến giờ chót, Lữ Đoàn 1 Dù mới rút ra Vũng Tàu. Tôi được lệnh trực tiếp do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù, mà anh em chúng tôi âu yếm gọi là Đỉnh Tây Lai đứng ở dưới bờ bảo vệ cho những đứa con lên tàu. Người chỉ huy Nhảy Dù có thói quen ở với hiểm nguy cho tới phút cuối cùng, dành sự an toàn cho từng đứa con yêu quư. "Đỉnh Tây Lai" là một trong những Thiên Thần lẫm liệt đó. Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về SàiG̣n giữa tháng 02/74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đă chận VC ở cửa ngơ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Ḥa, trong những giờ khắc SàiG̣n bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Đoàn Phó) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong ḷng Thủ Đô, mặc dù trăm ngh́n giao động cho tới phút chót. Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để đồng bào ra đi, để được ngă gục trên thân thể của Quê Mẹ ngh́n đời. Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?' Friday, April 19, 2013 6:12:41 PM Thời trung cổ, các chiến binh người Mông Cổ khi ngồi trên ḿnh ngựa ra trận tiền mà không may tử trận, các đồng đội của họ lập tức giết chết con ngựa mà anh ta cưỡi, lột lấy bộ da ngựa gói chặt tử thi quân nhân này rồi cho chuyển về hậu phương hỏa táng theo tục lệ của quân đội người Mông Cổ. Đây là một nghi thức đầy vinh dự chỉ dành cho người lính chết trận, không có biệt lệ dù đối với hàng tướng lănh. Nghi thức này được lưu truyền tới ngày nay đối với nhiều quân đội tại các quốc gia trên thế giới, nhưng thay v́ người ta dùng bộ da ngựa bọc thây người lính tử trận th́ dùng lá quốc kỳ của quốc gia đó phủ trên quan tài người đă v́ đất nước mà hy sinh. Thời quân đội Quốc Gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, quốc kỳ vàng ba sọc đỏ chỉ được phủ lên quan tài quân nhân tử trận. Nhưng sang đến thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa, tục lệ này được nới rộng cho cả bên lực lượng bán quân sự, cán bộ và công chức nếu họ hy sinh đang lúc thừa hành công vụ. Sở dĩ tục lệ này được nới rộng ra hàng ngũ những người không phải quân nhân là để cho công bằng v́ trong chiến tranh, nếu có người hy sinh v́ quân vụ th́ cũng có người hy sinh v́ công vụ, họ cũng phải được nhận vinh dự mà quốc gia dành cho họ. Năm (5) cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Ḥa, các ngành công chức và cảnh sát c̣n được quyền tạo những huy chương riêng để vinh danh những viên chức hay nhân viên làm việc xuất sắc, chẳng hạn như ngành thông tin và chiêu hồi có Tâm Lư Chiến Bội Tinh Đệ Nhất và Đệ Nhị Hạng. Huy chương cao quí nhất của công chức, cán bộ là Chương Mỹ Bội Tinh Đệ Nhị và Đệ Nhất Hạng, riêng Đệ Nhất Hạng Chương Mỹ Bội Tinh khi gắn xong phải cử quốc thiều như Bảo Quốc Huân Chương bên quân đội. Tôi nhắc lại một vài chi tiết để cho thấy rằng trong điều kiện nào một quân nhân hay một dân chính phục vụ quốc gia được hưởng vinh dự mà quốc gia ban cho qua người đại diện hàng đầu cho quốc gia ấy. Tổng Thống VNCH và đồng thời là tổng tư lệnh quân đội hay viên chức được ủy nhiệm là người đại diện cho quốc gia để trao gắn huy chương hay quyết định phủ lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ lên linh cữu của một quân nhân hy sinh ngoài chiến trường hay một công chức tử nạn đang lúc thi hành công vụ. Những tài liệu báo chí được lưu trữ trong Thư Viện Quốc Gia VNCH, dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Tướng Hồ Văn Tố chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh Thủ Đức đă bị vị tổng tư lệnh quân đội từ chối phủ quốc kỳ lên quan tài v́ lư do ông qua đời không phải là từ một nguyên nhân vinh dự. Năm 1964, phóng viên mặt trận của Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia, anh Khuất Duy Hải, tử trận tại chiến trường Đức Cơ, Pleiku, đă không được phủ quốc kỳ chỉ v́ lư do anh không phải là quân nhân. Tang lễ được hệ thống truyền thanh quốc gia đứng ra cử hành trọng thể, tổng ủy viên Thông Tin (chức vụ tương đương với tổng trưởng Thông Tin trong Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương), Tướng Nguyễn Bảo Trị đă đại diện chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đến gắn Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu trên quan tài và vào dịp này bản tuyên dương công trạng cố phóng viên mặt trận Khuất Duy Hải được đọc lên, nhưng không có quyết định phủ cờ v́ trường hợp anh là trường hợp đầu tiên một phóng viên mặt trận dân sự của ngành truyền thanh quốc gia tử trận trên chiến trường khi đang thi hành công vụ. Dù phóng viên mặt trận Khuất Duy Hải với những kư sự chiến trường được viết rất nhân bản và xúc động phát thanh hàng tuần, hấp dẫn được hàng triệu thính giả, nhưng chính phủ lúc đó là chính phủ quân nhân, chưa có tiền lệ phủ cờ nào dành cho những công chức trung cấp hy sinh ngoài tiền tuyến. Tôi nhắc lại một vài chi tiết lên quan đến nghi thức “da ngựa bọc thây” đầy xúc động và vinh dự cho người nằm xuống trong trận mạc hay phục vụ quốc gia không ngoài mục đích ǵ khác hơn là để nhắc lại rằng VNCH khi xưa dù chưa phải là một vùng đất dân chủ tự do hoàn toàn, nhưng những nguyên tắc liên quan đến việc ban phát ân sủng của quốc gia rất chặt chẽ. Cho nên sau này nhiều đồng hương ở đây đưa ra những lời khuyên rất chí lư: “Dù VNCH đă mất, dù quân đội, cảnh sát công chức, cán bộ đă tan hàng nhưng nên duy tŕ cái dấu ấn tinh thần từ những ǵ đă mất.” Dấu ấn tinh thần đó là ǵ? Nhiều người trong cộng đồng giải thích theo cách nh́n của họ “đó là tinh thần chí công vô tư, giữ ǵn tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm một cách thành thực.” Ngày 30 Tháng Tư gần kề, vấn đề trách nhiệm lại được đặt ra chứ không phải chỉ là những than khóc và những lời đăi bôi nơi cửa miệng. Năm nay, vấn đề ai là những người phải chịu trách nhiệm đă để một nửa đất nước từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau rơi vào tay những người cộng sản được đặt ra với một bài thơ, một di chúc rất xúc động của một cố tướng lănh VNCH: “Mai tôi chết, xin cờ vàng đừng phủ.” Đó là Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù mà thời chiến tranh Việt Nam, báo chí gọi ông là “con sói của trận mạc,” Việc ông di tản sang Hoa Kỳ vào ngày 29 Tháng Tư, 1975 đă trở thành vết thương và niềm u sầu suốt những năm tháng sau này qua một câu thơ mà nhiều người thích “Sầu hận tim ta ai biết được.” Nhưng chính lời trối trăn của ông đối với đồng đội, đồng hương đă làm h́nh ảnh của một bại tướng trở nên sáng ngời: “Tôi làm tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đă không dám chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu cầu đừng phủ quốc kỳ lên quan tài tôi, v́ tôi tự biết ḿnh không xứng đáng được hưởng lễ nghi nầy.” Với ḷng can đảm tuyệt vời, vị tướng lănh đáng được trân trọng nói trên đă để lại lời nói cuối cùng trước khi qua đời bao hàm nỗi ḷng u uẩn của dũng tướng, nhưng trong một phút chùng ḷng đă không theo được gương của người xưa “thân làm tướng khi thành mất th́ phải chết theo thành.” Nỗi buồn đó theo ông suốt những năm tháng c̣n lại của cuộc sống lưu vong trên xứ người, để rồi cuối cùng chuẩn bị cho cái chết ông đă can đảm từ chối vinh dự “da ngựa bọc thây,” khác với các tướng lănh thời đương thời và cùng hoàn cảnh di tản như ông. Nó là một thông điệp dứt khoát kêu gọi những người có trách nhiệm về việc mất miền Nam Việt Nam hăy can đảm nhận trách nhiệm của ḿnh, chấm dứt những nỗ lực t́m người lănh đạo cuối cùng phải đầu hàng để trút trách nhiệm cho họ, chấm dứt việc đ̣i lại danh dự cho nhà lănh đạo này hay lănh đạo khác mà biến cố cách đây 38 năm đă biến họ thành đào ngũ, đào nhiệm trước địch quân, chấm dứt việc đem lá quốc kỳ đă thấm máu quân, dân, cán, chính VNCH để đem phủ cho những người không đáng được hưởng vinh dự đó, hăy xét lại cho thật kỹ việc tự thêu khăn quàng, tự mang cà-vạt, đội mũ, mặc áo, tự sơn xe riêng của ḿnh mầu cờ vàng ba sọc đỏ và nên tự hỏi: liệu ḿnh có xứng đáng mang lá cờ này không, có đủ nhân cách, tư cách, có đủ sự trung thành với là cờ đó không hay việc ôm lấy lá quốc kỳ chỉ để che giấu những hoạt động chính trị thiếu chính trực của ḿnh? Tôi là phóng viên mặt trận của hệ thống truyền thanh quốc gia đă từng theo tường thuật hành quân và các trận đánh lớn từ thời Tướng Lê Quang Lưỡng c̣n là tiểu đoàn trưởng cho đến lúc ông trở thành lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 2 Sư Đoàn Nhảy Dù, cho nên tôi hiểu nỗi đau của ông khi phải viết lại di chúc này. Nhưng ngay từ những năm 1964, 1965 khi chiến tranh bắt đầu lan rộng, Tướng Lê Quang Lưỡng đă là một ngôi sao sáng trong số những ngôi sao c̣n rất trẻ ở sư đoàn Nhảy Dù, một đại đơn vị lúc nào cũng ở tuyến đầu, nhận chịu những áp lực nặng nề nhất từ phía CSBV, nhưng họ đă vượt qua được muôn trùng khó khăn là do giữ được kỷ luật và tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm. Riêng Tướng Lê Quang Lưỡng khi c̣n là tiểu đoàn trưởng đă được báo chí miền Nam gọi là “con sói của trận mạc” không có ǵ sai cả. Kiên tŕ vượt lên trên những lần thất bại, luôn luôn là tấm gương tinh thần cho những sĩ quan và binh lính thuộc cấp, gan dạ và mưu lược trong những giây phút căng thẳng và nguy hiểm nhất cho đơn vị, đối xử tốt và đúng luật đối tù binh địch, Tướng Lê Quang Lưỡng đă ngồi vào chức vụ tư lệnh của một trong những đơn vị tổng trừ bị hàng đầu của Quân Lực VNCH. Là một người công trạng sáng chói như ông mà chỉ v́ một quyết định không mấy vinh dự khi đất nước nghiêng ngửa mà tên tuổi của ông bị một vết chàm tưởng như sẽ vĩnh viễn không gột rửa. Nhưng ḷng yêu nước, trọng danh dự và trách nhiệm được thể hiện qua bài thơ: “Khi tôi chết xin cờ vàng đừng phủ,” ông đă nhận lại được danh dự và sự chính trực của một người mang thân làm tướng và đang là bại tướng. Gặp lại ông trong đám cưới của một người bạn năm 2001, ông cho mời tôi lại bàn. Dù tôi không biết uống rượu, tôi đă rót đầy ly của ông để đánh dấu ngày gặp lại người lính trận mà tôi vẫn nể phục này, ông chỉ thân mật cười, giọng trầm: “Chắc Ánh chưa biết anh không c̣n uống rượu được nữa v́ bệnh. Vả lại nhiều năm qua, anh thấy rượu sao đắng quá.” Tôi nh́n lại “con sói già,” người hùng thở nào trên các mặt trận ở Quảng Trị, Cùa, Đông Hà, Hải Lăng, Mỹ Chánh, PK.17, Kontum, Pleiku... tự nhiên thấy mắt ḿnh cay cay. Đó là lần cuối cùng tôi gặp ông. Giờ đây, chắc linh hồn Tướng Lê Quang Lưỡng đă yên ổn thênh thang ở cơi không c̣n chiến tranh và hận thù. Ông chắc đă gặp lại các đồng đội cũng từng hành động can đảm giống như ông. Đó là Đại Tá Huỳnh Thanh Sơn, tư lệnh phó Sư Đoàn 7 Bộ Binh, và cựu Trung Úy Đoàn Bá Phụ, một trong những đại đội trưởng xuất sắc của Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Đại Tá Sơn xuất thân từ Biệt Động Quân, sau những năm tháng trận mạc dài dài, ông được lệnh thuyên chuyển làm tư lệnh cảnh sát vùng và những năm cuối cùng trước 30 Tháng Tư, 1975, ông được bổ nhiệm tư lệnh phó hành quân Sư Đoàn 7 Bộ Binh do Tướng Trần Văn Hai làm tư lệnh. Khi Tướng Hai chuẩn bị tuẫn tiết th́ vừa lúc ông mở đường máu dẫn quân từ Cai Lậy về Bộ Tư Lệnh ở Đồng Tâm. Kết quả ông lănh hơn 12 năm tù cải tạo. Được thả và định cư ở Mỹ theo diện HO, ông vẫn không muốn ở không để lănh trợ cấp chính phủ nên không bao lâu sau khi định cư dù con cái ông đă khôn lớn và ổn định, cựu Đại Tá Huỳnh Thanh Sơn vẫn nhận công việc của một nhân viên an ninh tư để thấy ḿnh vẫn c̣n có ích cho xă hội. Ông bị ung thư gan và qua đời cách đây 11 năm. Trước khi qua đời ông dặn vợ con là không nhận phủ cờ vàng v́ cảm thấy ḿnh không đáng được hưởng vinh dự ấy. C̣n cựu Trung Úy Đoàn Bá Phụ là cựu tù cải tạo ở trại A-20 và đồng thời là người tù nổi tiếng bất khuất, định cư ở Mỹ bằng cách vượt biển sau khi được thả ra khỏi trại vài tháng. Sang định cư ở Hoa Kỳ, Phụ lập gia đ́nh, làm việc và nuôi dạy ba cô con gái sau này trở thành những sinh viên, học sinh xuất sắc và được học bổng của tỷ phú Bill Gates cũng như các học bổng khác. Trước khi qua đời anh trối trăn là đừng phủ cờ vàng v́ cảm thấy ḿnh không xứng đáng được hưởng vinh dự ấy và tôi là một trong những người chứng của lời trối trăn đầy can đảm này của người bạn tù. Những điều tôi viết ra chắc chắn có những người không đồng ư. Họ có thể có cách nh́n khác. Tôi tôn trọng và không tranh căi. V́ theo cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng:
Sau đây là một số bài thơ nhắc đến cờ vàng viết theo thể điệu của nhà thơ Du Tử Lê, "khi tôi chết hăy đem tôi ra biển ... Theo tác giả Nguyễn Ngọc Trân, ông cho biết sở dĩ ông sáng tác bài thơ này là v́ muốn bảo vệ sự thiêng liêng của lá cờ VNCH.
Với tinh thần “đừng” qua bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ,” tác giả Ngọc Trân cảm hứng làm bài thơ sau đây, sau khi đọc bài “Khi tôi chết hăy mang tôi ra biển” của thi sĩ Du Tử Lê.
|