Hồi Kư
của
Thiếu Tướng LÊ-QUANG-LƯỠNG
Thiên Thần Mũ Đỏ Ai C̣n Ai Mất

Tôi vẫn nhớ rơ như mới nh́n thấy hôm qua những khuôn
mặt, giọng nói tác phong của những anh em Dù đă cùng tôi
vào sinh ra tử. Thiếu Tá Thanh Tiểu đoàn 8 mà đồng đội
của người Tiểu Đoàn Trưởng nầy thường gọi là Thành Râu.
Anh em chúng tôi có Thiếu Tá Châu Lùn Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 1, Thiếu Tá Hạnh, Hào Hoa Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 2, Thiếu Tá Trang Trĩ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn 3, Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5
nổi nóng mặt đỏ gay, Thiếu Tá Lô Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn 7, biệt danh là Lô Lọ Rượu. Anh em chúng tôi c̣n có
Cậu Út Biên Ḥa hay cậu "Bảy T́nh" Mười Lựu Đạn tức
Trung Tá Thành, Tiểu Đoàn 6, Trung Tá Trần Đăng Khôi Lữ
Đoàn 2 tài đức song toàn.
Thiếu Tá Đường TĐ9, thích làm thơ t́nh lăng mạn, gọi là
Đường Thi Sĩ, anh em chúng tôi có Thiếu tá Hồng Thu,
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 16 gọi Cô Thu. Chúng tôi có 2 Ngọc,
Ngọc Long Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 và Ngọc Nga, Lữ Đoàn
Trưởng Lữ Đoàn 4, Làm sao anh em Dù chúng tôi quên được,
chúng tôi có 2 người bạn anh hùng, mỗi người chỉ có một
mắt. Trung Tá "Bùi Đăng" trong thẻ quân nhân không phải
họ "Bùi" cũng chẳng có tên "Đăng", tên anh là Bằng, Anh
chỉ có một mắt. Nhưng những chiến sĩ của anh gọi anh một
cách âu yếm là Bùi Đăng. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn
Phó Lữ Đoàn 2 cũng chỉ có một mắt từ ngày c̣n là Đại Đội
Trưởng Tiểu Đoàn 5, anh em Dù gọi là Hiệp sĩ Mù, tội
nghiệp Sơn đă hy sinh trong trận chiến sau cùng tại mặt
trận Phan Rang. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù của chúng tôi,
Hiệp sĩ mù của Thiên thần mũ đỏ không xử dụng cùng một
loại vũ khí như Hiệp sĩ mù của phim ảnh và tiểu thuyết.
Nhưng oai phong người Hiệp sĩ của Quê Hương ta chẳng
thua sút sự hào hiệp của người trong truyện. Chúng tôi
có Hiệp sĩ mù, chúng tôi có Bố Già. Làm sao quên Bố Già
Lương Ruột Ngựa. Đỉnh Tây Lai, Bố già Đại Tá Lê Văn
Phát, người tử thủ Khánh Dương, người lính già có mặt
hầu hết những trận lớn của Quê Mẹ? Bố Già Lữ Đoàn 3?
Đúng, chúng tôi có Bố Già đó.
Tháng 6/1972, sau trận B́nh Long, tôi được trả về Sư
Đoàn Dù, ít lau sau SĐ Dù được đưa ra Đà Nẵng để tăng
phái cho Quân Đoàn I. Lúc đó tôi là Lữ Đoàn Trưởng LĐ1
Nhảy Dù. Cùng với LĐ1 ra vùng I có LĐ2 và LĐ3. Thời gian
nầy, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy
Dù.
Sự phân phối các đơn vị Dù tại Quân Đoàn I lúc ấy như
sau: 2 Lữ Đoàn ở phía Nam Đèo Hải Vân. Tháng 9/1972, tôi
được bổ nhiệm làm phụ tá hành quân Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy
Dù. Vào tháng 8 năm đó, Trung Tướng Dư Quốc Đống bị
bệnh, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư Đoàn được
chỉ định đảm nhận Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, c̣n Đại Tá
Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn th́ vừa tử nạn phi cơ, do
đó tôi được đảm nhận trách vụ xử lư thường vụ Tư Lệnh Sư
Đoàn Nhảy Dù một cách không chính thức. Cuối tháng 8,
cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi tôi vào Dinh
Độc Lập để làm lễ tăng chức Chuẩn Tướng cho tôi, và sau
đó tôi được bổ nhiệm Tư Lệnh phó, xử lư thường vụ chức
vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đóng tại căn cứ Hiệp Khánh,
cây số 17 Bắc Huế. Đến tháng 11/1972, tôi chính thức
nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, thay thế Trung Tướng
Đống từ nhiệm v́ lư do sức khỏe. Khoảng thời gian 72 đến
75 ải địa đầu của Tổ Quốc của ta không phải là vùng đất
b́nh lặng, Quảng Trị, Thạch Hăn, Chu Lai, Cố Đô Huế.
Những danh xưng đủ nói lên những trời giao động. Những
người lính chiến được đồng bào gọi một cách âu yếm là
"Thiên Thần Mũ Đỏ". Trong suốt thời gian máu lửa đó đă
có mặt khắp cùng trên những vùng đất ải địa đầu, cùng
anh em quân nhân thuộc các quân binh chủng khác, mang
lại cho đồng bào, tuy không phải sự b́nh yên tuyệt đối
cũng là một t́nh h́nh khả quan.
Năm 1975, vào những ngày tháng Lịch Sử, chúng tôi đứng
vững vùng I. Đập những nhịp tim tin tưởng, anh em chúng
tôi, một mặt nh́n bao quát t́nh h́nh chiến trường khắp
nước, một mặt theo dơi mọi tiến thoái của các đơn vị đối
phương trong vùng, tay cầm súng sẵn, chờ địch quân. Thói
quen tiến vào chỗ chết, thói quen chấp nhận trận địa
mười thua một ăn mà vẫn chiến đấu oai hùng, làm cho anh
em Dù, mặc dù tin tức giao động đến từ bốn phía, vẫn
tiếp tục sẵn sàng chiến đấu, tiếp tục cố gắng.
Lệnh của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi Sư Đoàn Dù
về SàiG̣n hiện ra với tôi, bởi đó như một chấn động. Tôi
chờ đợi mọi thứ trong tư thế sẵn sàng. Đợi đối phương ào
ạt vượt sông Thạch Hăn, đợi chiến xa địch đến đây, miền
Trung kiêu hănh từ những vùng rừng rậm Nam Lào. Nhưng
tôi không chờ đợi được điều đó. Lệnh di chuyển SĐ Dù về
SàiG̣n, lệnh không phải chỉ nghe một phía mà từ mọi
hướng. Ngày 10.03.1975, Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuộc.
11.03.1975 Ban Mê Thuộc thất thủ. Tổng Thống Thiệu gọi
Trung Tướng Trưởng vào SàiG̣n nhận chỉ thị. Lệnh khủng
khiếp, lệnh làm choáng váng, làm tan nát, đó là "Bỏ vùng
I". Dường như muốn cho lệnh tổng quát đó được thi hành
chính xác, Tổng Thống Thiệu đ̣i Trung Tướng Trưởng phải
tức khắc cho rút Sư Đoàn Dù về SàiG̣n ngay. Cho chắc ăn,
SàiG̣n qua lệnh rút Sư Đoàn Dù về, muốn trói tay Trung
Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I. "Trói tay" là một h́nh ảnh dễ
hiểu nhưng có lẽ không đủ nghĩa. SàiG̣n đă lấy mất thanh
gươm và chặt hết một cánh tay, cánh tay cầm gươm của
Tướng Trưởng khi đối phương bắt đầu tiến tới.
Chỉ sau vài chục giờ sau khi lệnh Tướng Trưởng trả Dù về
SàiG̣n, công điện tối mật của Tổng Tham Mưu do chính
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu kư gởi cho Tư Lệnh Sư Đoàn
Dù hạ lệnh toàn bộ Sư Đoàn Dù rời khỏi miền Trung không
chậm trễ. Lúc đó tin Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Quân
Đoàn I cũng bắt đầu loan ra.
Ngày 17/03/75, sau khi đă thực hiện đầy đủ những giải
pháp kỹ thuật cho các anh em Dù rời miền Trung, chuyển
vận, tiếp liệu, an toàn khi ra đi v.v...tôi lên gặp
Trung Tướng Trưởng để chào từ giă. Tôi nói với Trung
Tướng Trưởng về việc Thủy Quân Lục Chiến cũng sẽ ra đi.
Tôi cũng nói lên những lời hàm ư chia sẻ ưu tư của Trung
Tướng về sự "Trói tay", sự tước bỏ mọi hỗ trợ trước một
trận đánh lớn. Khuôn mặt Tướng Ngô Quang Trưởng, vẫn sẵn
ưu tư, càng hiện ra ảm đạm. Ông chỉ cầm tay tôi nói:"Cảm
ơn anh và các Anh em Nhảy Dù đă giúp tôi rất nhiều trong
những năm qua".
Anh em quân nhân Nhảy Dù nghĩ rằng ḿnh được di chuyển
toàn bộ về SàiG̣n. Các Sĩ quan chỉ huy từ Đại Đội cho
đến Lữ Đoàn được loan báo là họ được di chuyển về thủ Đô
VNCH. Tướng Trưởng được lệnh "trả Sư Đoàn Dù về SàiG̣n".
Lệnh tôi nhận được cũng rất rơ rệt: Đưa Sư Đoàn Dù về
SàiG̣n.
Có thể những sử học trong tương lai cũng tóm tắt sự di
chuyển của anh em chúng tôi bằng những ḍng chữ "Tướng
Thiệu, để chặt tay Tướng Trưởng, để gây cho Dân, Quân
miền Trung sự kinh hồn tột độ, mở đầu cho tan ră ồ ạt,
hạ lệnh rút Sư Đoàn Dù ra khỏi tuyến đầu".
Sự việc không hoàn toàn đơn giản như thế. Lệnh rút Sư
Đoàn Dù về SàiG̣n chỉ là một lệnh bề mặt mà chiều sâu là
phân tán Sư Đoàn Dù. Ông Thiệu áp dụng kế hoạch "Bẻ bó
đũa" làm tan tành một đoàn quân bách chiến, một Binh
chủng oai hùng, xô đẩy những Thiên Thần vào hỏa ngục. 12
Tiểu Đoàn Trưởng trên 18 linh hồn của đoan quân Mũ đỏ
hoặc gục ngă ở chiến trường sắp đặt, hoặc rơi vào tay
địch, có cả một Lữ Đoàn tan thành mây khói, có cả một Lữ
Đoàn đánh đoạn hậu bảo vệ cho đồng bào di tản và tới
phiên ḿnh quân trải trên một diện tích rộng lớn, chỉ
xuống tay được mấy trăm con.
Lệnh tôi nhận được là chia Sư Đoàn Dù ra làm hai nhánh,
một đi tàu thủy và một do không vận. Lữ Đoàn 1 và 2 di
chuyển bằng phi cơ của Không Lực VNCH. Lữ Đoàn 3 di
chuyển bằng tàu HQ-404 của Hải Quân VN. Lữ Đoàn 1 và 2
đến điểm hẹn như ấn định, nhưng Lữ Đoàn 3 không được đưa
đến nơi. Khi HQ-404 đến gần Nha Trang th́ Hạm Trưởng
nhận được lệnh đổ anh em xuống Nha Trang. Tôi chưa kịp
ngạc nhiên, nhưng ư tưởng thắc mắc v́ sao Tổng Thống
Thiệu nói đưa toàn bộ Sư Đoàn Dù về SàiG̣n để rồi phân
tán một phần đi nơi khác. Dù vậy, không bao giờ tôi quên
được khuôn mặt, mắt liếc xéo, nụ cười khoái trá, giọng
nói chứa đựng thỏa măn, toàn bộ khuôn mặt toát ra một sự
khoan khoái kỳ lạ. Cựu Tổng Thống nh́n tôi với tia mắt
kỳ lạ đó với nụ cười ở cuối môi, ông nói: "Theo anh liệu
Trung Tướng Trưởng có giữ nổi Quân Đoàn I khi tôi rút Sư
Đoàn Dù về đây không?".
Mặc dù lệnh lạc lung tung, bảo về SàiG̣n lại đổ xuống
Nha Trang, mặc dù bảo về dưỡng quân lại được ném ra mặt
trận, là một quân nhân kỷ luật, ư thức được rằng sức
mạnh đến từ kỷ luật sắt thép, anh em Lữ Đoàn 3 xuống Cầu
Đá Nha Trang là lên đường đi chiến đấu ngay. Đại Tá Lê
Phát, người nắm Lữ Đoàn 3 cũng là người có biệt hiệu "Bố
Già" đặt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục
Mỹ. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn 3 là nút chặn địch ở Khánh
Dương giúp cho các Đơn vị của Quân Đoàn II rút lui an
toàn. Biết rơ sự oai hùng của các Thiên Thần Mũ Đỏ của
QLVNCH, Văn Tiến Dũng tung 2 Sư Đoàn với quân số 6 lần,
là những SĐ 320 và SĐ 10 đánh bọc ngang hông. Lữ Đoàn 3
Dù b́nh tĩnh và oai hùng chiến đấu, quất cho quân địch
tổn thất nặng nề. Lữ Đoàn 3 c̣n ở Khánh Dương, địch
không thể đi lên một bước. Ngày 28/03, v́ quân số đối
phương đông gấp 10 lần, nên không thể ngăn chặn vĩnh
viễn, v́ lệnh SàiG̣n hay v́ một lư do nào khác, Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú đă ra lệnh cho Đại Tá Phát rút Lữ
Đoàn 3 từ Nha Trang vào Phan Rang, sau đó lệnh lại được
đưa xuống là bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các thành phần yểm
trợ th́ rút về Phan Rang, c̣n 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 th́
rút lên núi trấn giữ ở đó. Tại sao lại đưa 3 Tiểu Đoàn
Dù lên núi? Nghe tin này tôi vội vă bay ra Phan Rang.
Tư Lệnh Nhảy Dù trên nguyên tắc và bởi định nghĩa là
người chỉ huy binh chủng Nhảy Dù. Nếu không được tham dự
vào việc hoạch thảo chiến lược, th́ ít nhất trách nhiệm
chiến thuật phải được trọn vẹn. Tôi không được Tổng Tham
Mưu hay Phủ Tổng Thống tham khảo một lần nào về chiến
lược lui quân, kể từ ngày binh chủng Dù được bốc khỏi
Vùng I, quyền chỉ huy, chiến thuật binh chủng Dù, quyền
xử dụng anh em quân nhân Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay
của Tư Lệnh Dù. Anh em binh chủng tôi đặt chặt và giao
cho người nầy một mảnh, người kia một miếng. Khi nh́n
thấy chiến hữu của tôi bị vất vả cùng cực, tôi chạy
ngược chạy xuôi đi can thiệp. Trong những giờ chạy đôn
chạy đáo, ư tưởng ghê gớm lóe lên trong tôi, "Phải chăng
một ác thần đang làm tê liệt hàng vạn tinh binh trước
khi mở ra cuộc hỏa thiêu thành La Mă?".
Tôi bay ra Phan Rang gặp ngay Trung Tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi lúc đó là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, đang chỉ huy
Bộ tư Lệnh tiền phương tại đây. Nơi đó tôi cũng gặp
Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân. Tôi yêu cầu cho
trực thăng lên núi bốc 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 về Phan Rang.
Tướng Nghi chấp thuận, chỉ thị Tướng Sang cho Không Quân
giúp. Anh em trực thăng đă rất nhiệt tâm và can đảm
trong việc bốc hơn 1000 người bỗng nhiên bị ném lên một
ngọn núi chơ vơ mà không một lư do chiến lược hay chiến
thuật nào giải thích được cả. Lữ Đoàn 3 trong tư thế
vững vàng, sẵn sàng chiến đấu nghiêm chỉnh trong vị trí
đứng đắn. 30.03.1975, tôi tạm yên tâm, bay về SàiG̣n.
Vừa đặt chân đến Thủ Đô, tôi được lệnh Tổng Tham Mưu cho
Lữ Đoàn 2 ra Phan Rang thay thế Lữ Đoàn 3, Lữ Đoàn 3 về
SàiG̣n tái chỉnh trang Đơn vị. Tôi muốn hét to lên: Tăng
cường chớ sao lại thay thế? Mặt trận đang nặng, rút một
đập ngăn nước lớn đi, đập mới chưa dựng xong, nước sẽ ùa
tới mang lụt lội tàn phá tan tành! SĐ 310 và 320 của đối
phương đang di chuyển nhanh về vùng 3 chính vào lúc đầu
tháng tu nầy. Sư Đoàn 10 của địch càn quét Nha Trang.
Mặt Bắc là Sư Đoàn 10, Nam là các SĐ 310 và 320, tăng
chúng ào ào, tù nhân thả ra do bàn tay bí mật từ các
khám đường, một số quân nhân của một binh chủng bị mất
cấp chỉ huy sinh rối loạn, chính trong biển hỗn loạn và
tan vỡ đó, người ta ném Lữ Đoàn 2 Dù, những đứa con thân
yêu ruột thịt của tôi, những bằng hữu vào sinh ra tử,
nằm gai nếm mật của tôi trọn lượng ném vào khoảng trống,
viên ngọc quư ném vào đại dương giông băo. 3 Tiểu Đoàn
3, 7, và 11 của Lữ Đoàn 2 chiến đấu như những con cọp bị
vây hăm, dường như sợ cái đại dương hỗn loạn đó chưa đủ
làm thành một hỏa ngục rực lửa, người ta không ai c̣n
nhớ đến việc tiếp tế cho những Thiên thần Mũ Đỏ từ trời
cao đáp thẳng xuống địa ngục A Tỳ. Anh em Lữ Đoàn 2 mặc
dù t́nh h́nh rối loạn, mặc dù tin tức giao động từ bốn
phía, mất Quân Đoàn I, Quy Nhơn thất thủ, Nha Trang thất
thủ, anh em vẫn chiến đấu, cho đến viên đạn cuối cùng.
Tiểu Đoàn 6 sau những trận oai hùng được lệnh Tổng Tham
Mưu rút khỏi Phan Rang, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân của
Đại Tá Biết thay thế. Nhưng Tiểu Đoàn 3 chỉ 100 anh em
được trực thăng bốc về Phan Thiết, Tiểu Đoàn 11 mất liên
lạc toàn diện. Tôi mất Thiếu Tá Thành, con chim đầu đàn
của Tiểu Đoàn 11 và Đại Tá Nguyễn Thu Lương, mà anh em
chúng tôi thường gọi một cách thân thương là "Lương Ruột
Ngựa", con chim đầu đàn của Lữ Đoàn 2 cũng tại vùng đất
lửa này. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cũng lọt vào tay địch ở
Phan Rang.
Chiếc đũa Lữ Đoàn 2 bị bẻ găy, chiếc đũa Lữ Đoàn 3 bị
ném tại Khánh Dương, bốc về Phan Rang, lửa hỏa lực nung
nấu mệt nhừ. Ngày 8.4.1975, viên Trung Úy Không Quân tên
Trung ném bom Dinh Độc Lập, về mặt dân sự, một số chính
khách đối lập bị bắt giữ. Nhưng phản ứng của Tổng Thống
Thiệu là đưa "chiếc đũa Lữ Đoàn 1" chiếc đũa c̣n nguyên
vẹn của bó đũa bị tách rời từng chiếc, ra tăng phái Quân
Đoàn III, dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Văn Toàn.
Ư tưởng rơ rệt trong tôi, và cả bây giờ là Tổng Thống
Thiệu sợ đảo chánh nên phân tán các đơn vị Nhảy Dù ra
các nơi. Tôi là Tư Lệnh Nhảy Dù nhưng tay chân hoàn toàn
bị chặt hết.
Ư tưởng làm sống dậy h́nh ảnh, một ngày tại vùng I, ở Cố
Đô Huế, tôi nói với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: "Trung
Tướng cứ để anh em tôi về SàiG̣n làm một chuyến, thử xem
sao?" Trung Tướng lắng nghe lặng lẽ. Tôi hiểu Tướng
Trưởng cũng như anh em chúng tôi là những người lính đơn
thuần, chỉ lấy việc bảo vệ Quê Hương làm quan trọng,
không màng ǵ tới danh vọng và chính trị, chúng tôi
không có thói quen chọn lựa những quyết định không liên
quan trực tiếp đến chiến trường. Cựu Tổng Thống Thiệu có
nghe phong phanh về những toan tính đó không? Trong mọi
trường hợp, lúc đó tôi nghĩ là ông phân tán anh em chúng
tôi v́ nghi ngờ. Bây giờ tôi c̣n muốn nghĩ như thế. Trừ
khi ông muốn bẻ tan bó đũa v́ lư do khác - Lư do khủng
khiếp - Tôi không muốn nghĩ tới lư do đó. Tôi muốn nghĩ
đến một sự nghi ngờ. Như một sự xua đuổi ư nghĩ ghê gớm
kia.
Lữ Đoàn I ra Quân Đoàn III trấn giữ Xuân Lộc, tăng phái
cho Sư Đoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy. Nhiệm
vụ của Lữ Đoàn là chận đứng bước tiến của VC vào SàiG̣n.
Anh em Dù của Lữ Đoàn 1 đă oai hùng làm tṛn nhiệm vụ,
địch quân không tiến thêm được một tấc đất. Đoàn quân
viễn chinh của Vơ Nguyên Giáp, dưới sự chỉ huy trực tiếp
của Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, bị khựng lại ở ngay
cửa ngơ của SàiG̣n. Từng đợt xung phong có chiến xa và
pháo binh yểm trợ, tất cả đều bị đánh bật, tiến lên là
phải lùi lại, tấc đất đánh được buổi sáng, buổi chiều
anh em Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao
tranh, Sư Đoàn 18 được lệnh rút về Biên Ḥa, Lữ Đoàn 1
chiến đấu giữ vững trận tuyến, từ đầu tới cuối. Sau chót
đến đêm 28 rạng 29/04, Bộ Đội CS tấn công Lữ Đoàn 1 Dù ở
Lăng Can, Bà Rịa đánh đến giờ chót, Lữ Đoàn 1 Dù mới rút
ra Vũng Tàu. Tôi được lệnh trực tiếp do Trung Tá Nguyễn
Văn Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù, mà anh em chúng
tôi âu yếm gọi là Đỉnh Tây Lai đứng ở dưới bờ bảo vệ cho
những đứa con lên tàu. Người chỉ huy Nhảy Dù có thói
quen ở với hiểm nguy cho tới phút cuối cùng, dành sự an
toàn cho từng đứa con yêu quư. "Đỉnh Tây Lai" là một
trong những Thiên Thần lẫm liệt đó.
Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về SàiG̣n giữa
tháng 02/74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4,
dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em
Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đă chận VC ở cửa
ngơ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Ḥa, trong những giờ khắc
SàiG̣n bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá
Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát
trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi
Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong
chức vụ Lữ Đoàn Phó) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng
Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong ḷng Thủ Đô,
mặc dù trăm ngh́n giao động cho tới phút chót. Đến những
giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất
được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn
để đồng bào ra đi, để được ngă gục trên thân thể của Quê
Mẹ ngh́n đời.
Thiếu Tướng Lê Quang
Lưỡng - Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH
|