Trí
thức và độc tài
Đọc lịch sử các chế độ độc tài, từ độc tài phát xít
với những Hitler và Mussolini đến độc tài cộng sản
với những Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nicolae
Ceauşescu, và Kim Chính Nhật (bây giờ là Kim Chính
Ân) hay độc tài quân phiệt với những Saddam Hussein,
Muammar Gaddafi, Robert Mugabe…chúng ta không thể
không ngạc nhiên.
Có rất nhiều điều để ngạc nhiên.
Thứ nhất,
tất cả các tên độc tài, dưới nhiều nhăn hiệu khác
nhau, đều vô cùng tham lam và độc ác. Chúng thâu tóm
toàn bộ quyền lực trong tay và với quyền lực vô tận
ấy, giết vô số người, từ những kẻ thù thực sự đến
những kẻ thù tưởng tượng, trong đó phần lớn là chính
dân chúng ở nước chúng.
Thứ hai,
tất cả đều mắc bệnh huyễn tưởng, tự xem vị thế và
quyền lực của ḿnh như một thứ ǵ thuộc về thiên
mệnh; và v́ thiên mệnh, chúng nằm ngoài hoặc nằm
trên không những luật pháp mà c̣n cả các nguyên tắc
đạo lư thông thường của con người. Giết người, thậm
chí, giết vô số người, với người khác, là tội ác;
với chúng, là thiêng liêng và cao cả.
Thứ ba,
v́ căn bệnh huyễn tưởng ấy, rất nhiều nhà độc tài
trở thành lố bịch, không khác những tên hề.
Ceauşescu tự xưng ḿnh là “Thiên tài của vùng
Carparthians”, một vùng núi rộng lớn ở Trung Âu, kéo
dài từ Slovakia qua miền Nam Ba Lan, miền Tây
Ukraine đến tận phía Đông Bắc của Romania. C̣n vợ
của ông, Elena, người được cử làm Phó Thủ tướng, th́
được tuyên truyền như một “Quốc mẫu”, một nhà khoa
học vĩ đại (dù bà thực sự bỏ học từ năm 14 tuổi, và
tất cả các cái gọi là “công tŕnh khoa học”, kể cả
luận án tiến sĩ của bà, đều do người khác viết).
Rafael Trujillo, nhà độc tài ở Dominican Republic từ
1930 đến 1938 và từ 1942 đến 1952 th́ tự xem ḿnh là
Thượng đế. Ông ta ra lệnh cho mọi nhà thờ trong nước
phải khắc câu “Chúa ở trên Trời, Trujillo ở dưới
Thế” (God in Heaven, Trujillo on Earth) và mọi bảng
xe đều khắc câu “Trujillo vạn tuế”. Francisco Macias
Nguema, nhà độc tài ở Equatorial Guinea từ năm 1968
đến 1979 cũng thế. Cũng tự xưng ḿnh là Thượng đế.
Dưới thời ông, biểu ngữ chính trong nước ghi “Không
có Thượng đế nào khác ngoài Macias Nguema”.
Saparmurat Niyazov, Tổng thống xứ Turkmenistan từ
năm 1990 đến 2006 th́ ra lệnh đổi tên 12 tháng trong
năm theo tên ông và người thân trong gia đ́nh của
ông. Ông cũng viết sách và ra lệnh bất cứ người dân
nào, để được thi lấy bằng lái xe, cũng phải thuộc
ḷng nguyên cả cuốn sách của ông.
Thứ tư, tất
cả đều giả dối, đều sử dụng vô số huyền thoại láo
khoét để biến ḿnh thành thần tượng, thành những
lănh tụ anh minh, đầy viễn kiến, mở ra những chân
trời mới cho đất nước hoặc cho cả nhân loại. Những
huyền thoại ấy nhiều khi rất ngây ngô,
ví dụ chuyện Kim Chính Nhật điều khiển
đội tuyển bóng đá Bắc Triều Tiên trong giải World
Cup 2010 bằng cách chỉ dẫn từng đường đi nước bước
trong suốt trận đấu cho huấn luyện viên Kim Jong-Hun
qua một chiếc điện thoại di động vô h́nh!
Nhưng cả bốn điều “đáng ngạc nhiên” trên đều không
đáng ngạc nhiên bằng hai điều này:
Một, mặc dù tham lam,
độc ác, mắc bệnh huyễn tưởng và giả dối như vậy,
những tên độc tài ấy lại cầm quyền, hơn nữa, cầm
quyền một cách tuyệt đối, trong thời gian rất dài,
có khi cả đời hoặc nhiều đời, hết đời con đến đời
cháu, chắt.
Hai, dù đầy khuyết điểm như vậy,
những tên độc tài ấy vẫn được nhiều người, kể cả
giới trí thức, thậm chí là trí thức xuất sắc ở Tây
phương, ngưỡng mộ và hết sức bênh vực cũng như góp
phần tuyên truyền cho chúng một cách nhiệt t́nh.
Trong hai điều trên, điều thứ hai quan trọng hơn.
Giải thích điều thứ nhất, người ta có thể nói: Bởi
các nhà độc tài đă xây dựng được một bộ máy tuyên
truyền hữu hiệu đủ để nhồi sọ tất cả mọi người và
một bộ máy quyền lực mạnh mẽ đủ để nghiền nát bất cứ
người nào dám chống đối. Nhưng không có một bộ máy
xă hội và chính trị nào có thể tồn tại độc lập. Vấn
đề chính là ở con người, tức ở khía cạnh thứ hai,
chúng ta vừa nêu ở trên: Tại sao người ta lại khiếp
sợ và ngưỡng mộ các tên độc tài đến như vậy? Tại sao
người ta lại để cho các tên độc tài dễ dàng lừa dối
ḿnh đến như vậy?
Trên thế giới, cũng có nhiều người từng ngạc nhiên
như vậy. Có thời, những kẻ như Hitler, Mussolini,
Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Fidel Castro, thậm
chí, Kim Chính Nhật đă trở thành thần tượng của
nhiều trí thức và văn nghệ sĩ Tây phương. Đạo diễn
Oliver Stone khen Fidel Castro là một kẻ “rất vị tha
và đạo đức. Một trong những người khôn ngoan nhất
trên thế giới.” Một đạo diễn khác, Steven Spielberg,
cho “gặp
gỡ Fidel Castro là tám giờ quan trong
nhất” trong cuộc đời của ông.
Trước đó, ở Ư, Gabriele D’Annunzio, một nhà thơ lớn,
cũng như nhiều nhà thơ thuộc trường phái Vị Lai
khác, từng là những kẻ ủng hộ nhiệt thành Mussolini.
Ở Đức, Hitler không thiếu người ngưỡng mộ, kể cả một
trong những triết gia lớn nhất của thế kỷ,
Heidegger, một trong những họa sĩ lớn nhất của thế
kỷ, Salvador Dali, một trong những nhà thơ lớn nhất
của thế kỷ, Ezra Pound. Nhà văn Na Uy từng đoạt giải
Nobel năm 1920, Knut Hamsun, cũng rất ủng hộ Hitler.
Đối với các nhà độc tài cộng sản, số trí thức ngưỡng
mộ nhiều hơn hẳn. Nhà văn Anh George Bernard Shaw
(1856-1950) suốt đời ủng hộ Lenin, Stalin, và cả
Hitler nữa. Cả Andre Gide và Doris Lessing đều từng
ủng hộ Stalin tuy cả hai, sau đó, tự nhận là ḿnh
lầm. Picasso, Bertolt Brecht, Pablo Neruda,
W.E.B. Du Bois, Graham Greene, v.v. cũng đều ủng hộ
Stalin; trong đó, có người vừa ủng hộ Stalin vừa ủng
hộ Mao Trạch Đông.
Jean-Paul Sartre cũng từng là người ủng hộ Stalin và
chế độ cộng sản rất nồng nhiệt. Ông là tác giả của
một câu nói gây rất nhiều tai tiếng: “Mọi
kẻ chống cộng đều là chó” (every
anti-communist is a dog). May, sau đó, ông thay đổi
thái độ. Khi quân đội Sô Viết xâm lăng Hungary vào
tháng 11 năm 1956, ông lên án Liên Xô kịch liệt. Sự
phê phán của Sartre đối với Liên Xô càng mạnh mẽ hơn
nữa vào năm 1968 khi quân đội Xô Viết trấn áp dân
chúng Czechoslovakia trong sự kiện được gọi là “mùa
xuân Prague”. Trước năm 1975, trong chiến
tranh Việt Nam, ông là người tích cực ủng hộ miền
Bắc và
lên án Mỹ một cách
gay gắt. Sau năm 1975, chứng kiến
thảm cảnh của người Việt Nam vượt biển, ông lại lên
tiếng phê phán chính quyền Việt Nam và kêu gọi chính
phủ Pháp
cứu giúp người tị
nạn.
Chúng ta lại phải tự hỏi: Tại sao nhiều người trí
thức lại dễ dàng bị các nhà độc tài lừa bịp đến như
vậy? Tại sao họ lại nhẹ dạ và cả tin đến như vậy?
Nhớ, trước đây, trong những lần về Việt Nam, tôi gặp
khá nhiều văn nghệ sĩ và trí thức ở miền Bắc. Nhiều
người kể lại, trước phong trào đổi mới, đặc biệt,
trước năm 1975, họ gần như tuyệt đối tin tưởng vào
giới lănh đạo và chế độ. Trong các buổi học tập
chính trị và văn hóa, họ lắng nghe cán bộ giảng bài
như nghe những lời thánh phán. Họ cắm cúi ghi chép
rồi về nhà, đọc lại một cách thành kính. Sau này,
cũng theo lời họ, đọc lại các cuốn sổ tay cũ, họ
thấy những ư kiến trong ấy rất hời hợt, thậm chí,
ngô nghê. Họ tự hỏi: Tại sao thời ấy họ lại xem
những ư kiến ấy như những lời vàng ngọc như vậy?
Chính họ, họ cũng không biết rơ câu trả lời. Tất cả
đều cho: Đó chỉ là hậu quả của việc nhồi sọ.
Lại nhớ, mấy năm đầu sau 1975, một số trí thức Việt
kiều ở Pháp về thăm nước rồi viết bài đăng tải trên
báo chí ở Paris. Họ khen Việt Nam không tiếc lời.
Trong lúc người Việt Nam đói đến xanh xao mặt mũi,
họ khen đời sống rất sung túc. Trong lúc cả hàng
chục ngàn người bị bắt đi cải tạo và con cái họ
không được vào đại học, họ khen “chính quyền cách
mạng” thực tâm ḥa giải, không có bất cứ một chính
sách kỳ thị nào đối với những người thuộc chế độ cũ
trước đó. Trong lúc cả hàng triệu người bất chấp
nguy hiểm t́m cách vượt biên t́m tự do, họ cho Việt
Nam là một quốc gia dân chủ và ao ước một ngày nào
đó được về nước sống hẳn (dù trên thực tế, không bao
giờ họ về cả!)
Trí thức trong nước bị nhồi sọ. Nhưng c̣n trí thức
ngoài nước th́ sao?
Trong lúc loay hoay t́m cách trả lời cho câu hỏi ấy,
cũng như câu hỏi về sự nhẹ dạ và cả tin của trí thức
thế giới nói chung, tự dưng tôi nhớ đến mấy câu thơ
của Nguyễn Quốc Chánh trong bài “Tao
là đứa bé ngoẻo trên lưng Linda Lê”:
“Có 3 thứ không thể kết hợp với nhau nổi. Đó là:
Thông minh, lương thiện & cộng sản.
Một người thông minh & lương thiện th́ không thể
cộng sản,
Một người thông minh mà cộng sản th́ không thể lương
thiện, &
Một người lương thiện mà cộng sản th́ chắc chắn
không thông minh.”
Những câu thơ ấy ám ảnh tôi đến độ tôi không thể
nghĩ tiếp được nữa.
Đành dùng chúng thay cho lời kết luận của bài viết.
Nguyễn Hưng Quốc
http://www.voatiengviet.com/content/tri-thuc-va-doc-tai/1642688.html |