Sự h́nh
thành Cộng đồng Người Việt Hải ngoại
Trần Gia Phụng
(Tŕnh bày tại Viện Việt Học, California ngày 23-7-2011)
Trong lịch sử Việt Nam, có một số trường hợp, người Việt ra nước ngoài
tập thể: Ví dụ khi nhà Lư sụp đổ năm 1225, hoàng thân Lư Long Tường (nhà
Lư) lo ngại bị nhà Trần đàn áp, nên cùng đoàn tùy tùng qua Triều Tiên
lập nghiệp năm 1226. Năm 1789, vua Quang Trung chiến thắng oanh liệt ở
Đống Đa; vua Lê Chiêu Thống (nhà Lê) sợ bị trả thù, liền cùng các cận
thần qua Trung Hoa lưu vong.
Dưới thời Pháp thuộc, trong thế chiến I (1914-1918) và thế chiến II
(1939-1945), Pháp đưa hàng trăm ngàn binh sĩ Việt qua Pháp chiến đấu.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, một số người ở lại bên đó sinh sống rải
rác nhiều nơi. Ngoài ra, trong thập niên 30 của thế kỷ trước, nhiều
người Việt bị thực dân Pháp mộ phu, đưa qua quần đảo Tân Calédonie,
ngoài khơi Thái B́nh Dương, rồi ở luôn bên đó.
Tuy đă nhiều lần ra nước ngoài, nhưng chưa lần nào người Việt tổ chức
thành cộng đồng như Cộng đồng Người Việt Hải ngoại (CĐNVHN) sau năm
1975.
1.
Nguyên nhân
Có hai nguyên nhân chính đưa đến sự thành lập CĐVNHN sau năm 1975.
Thứ nhất là sự sụp
đổ của chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) ngày 30-4-1975, khiến nhiều
người Việt bỏ nước ra đi.
Thứ hai, người
Việt di tản và vượt biên có cùng một mẫu số chung là tỵ nạn cộng sản,
nên người Việt tự động tập họp với nhau, đầu ít, sau nhiều và dần dần
đưa đến sự h́nh thành CĐNVHN.
2. Di
tản và vượt biên
Cuộc ra đi lần nầy của người Việt có thể chia thành bốn giai đoạn. Những
số liệu dưới đây dựa vào thống kê của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc
(United Nations High Commissioner for Refugees = UNHCR)
Giai đoạn 1: Trước
khi cộng sản kiểm soát được Sài G̣n ngày 30-4-1975 và sau đó vài ngày
sau nữa, khoảng 150,000 người di tản ra nước ngoài, trong đó 140,000 qua
Hoa Kỳ, 10,000 đến các nước Âu Châu và các nước khác.
Giai đoạn 2 (từ
1975 đấn 1979): Khi người Việt ra nước ngoài đông đảo, nhất là qua Hoa
Kỳ, tổng thống Gerald R. Ford (thay thế tổng thống Richard Nixon từ chức
tháng 8-1974) ban hành đạo luật “Indochina Migration and Refugee Act” (Đạo
luật về Di trú và Tỵ nạn Đông Dương) được quốc hội thông qua ngày
23-5-1975, theo đó “những người Nam Việt Nam và Cao Miên được phép nhập
cư vào Hoa Kỳ theo một quy chế đặc biệt và sẽ được trợ cấp để tái định
cư.” Các tổ chức thiện nguyện như Civitan International, The United
States Conference of Catholic Bishops, The International Rescue
Committee, và The Church World Service, sẽ bảo trợ những người đến định
cư.(1)
Từ tháng 6-1975 đến 1979, tổng cộng 326,000 người Việt vượt biên , trong
đó có 311,400 thuyền nhân, và 14,600 người đi bằng đường bộ qua
Cambodia, Thái Lan.(2) Người ta ra đi nhiều trong thời gian nầy v́ Đỗ
Mười, bí thư trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), vào Nam năm 1978,
phát động chiến dịch cải tạo công thương nghiệp, nhưng thực chất là đánh
giới tư sản, kể cả tư sản người Việt gốc Hoa. Trong các tháng 3 và
4-1978, khoảng 30,000 doanh nghiệp lớn nhỏ của người Hoa bị đóng
cửa.(Wikipedia: "Thuyền nhân”.) V́ vậy, nhiều người Việt gốc Hoa đóng
vàng cho nhà nước CS để được thoát khỏi Việt Nam theo chương tŕnh ra đi
“bán chính thức”. Phía Trung Quốc gọi là “nạn kiều”.
Giai đoạn 3 (từ
1980 đến 1989, trước thời điểm UNHCR ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn,
không nhận người vượt biên): Trước t́nh h́nh người Việt ra đi tỵ nạn
đông đảo trên đây, chính phủ Hoa Kỳ ban hành thêm đạo luật "Refugee Act”
(Đạo luật Tỵ nạn) ngày 17-3-1980 nhằm “cung cấp quy chế có tính cách hệ
thống và vĩnh viễn để tiếp nhận và tái định cư một cách hiệu quả người
tỵ nạn dựa trên những nhu cầu nhân đạo đặc biệt.” (3)
Trong giai đoạn nầy, khoảng 450,000 người ra đi, gồm có 428,500 thuyền
nhân và 21,500 người đi đường bộ, đến các đảo Hồng Kông, Palawan (Phi
Luật Tân), Bidong (Malaysia), Galang (Indonesia), các trại ở Thái Lan,
rồi từ đó đi định cư khắp thế giới.
Giai đoạn 4 (từ
1990 đến 1995, tức từ khi Liên Hiệp Quốc khóa sổ năm 1989 cho đến lúc
giải tán vĩnh viễn các trại tỵ nạn năm 1996): Số người ra đi vẫn tiếp
diễn, tổng cộng khoảng 63,100 người, trong đó 56,400 là thuyền nhân và
6,700 người đi đường bộ.
Như thế từ khi Sài G̣n bị cưỡng chiếm ngày 30-4-1975 cho đến cuối năm
1995, trong bốn đợt ra đi, tổng số người Việt bỏ nước ra đi, theo thống
kê của UNHCR là 989,100 người, cả đường biển lẫn đường bộ. Số người tử
nạn trên đường vượt biên không thể thống kê chính xác được. Người ta
phỏng chừng có khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ ḿnh trên
biển cả hay bị hải tặc bắt giết.
Những người di tản đầu
tiên ngay sau ngày 30-4-1975, được đi định cư tương đối dễ dàng. Những
người vượt biên sau đó phải trải qua nhiều thủ tục khó khăn rườm rà mới
được đi định cư.
Trong giai đoạn đầu, thoát khỏi Việt Nam, người vượt biên đến tạm cư ở
những nước lân cận Việt Nam như Malaysia, Indonesia, Phi Luật Tân, Hồng
Kông... và phải trải qua các thủ tục sau đây: Thứ nhất, là UNHCR phỏng
vấn. Trong cuộc phỏng vấn nầy, người vượt biên phải chứng minh ḿnh đúng
là nạn nhân của chế độ cộng sản, mới được đi định cư. (Người nào không
chứng minh được th́ không được chấp nhận quy chế tỵ nạn.) Thứ hai, người
tỵ nạn c̣n phải qua cuộc phỏng vấn của đại diện nước mà đương sự muốn
xin đi định cư (Hoa Kỳ, Canada, Úc...). Nếu được chấp nhận mới có thể
lên đường.
Năm 1989, UNHCR quyết định đóng cửa các trại tỵ nạn Malaysia, Indonesia,
Phi Luật Tân, Hồng Kông. Từ đây các thuyền nhân phải trải qua một cuộc
thanh lọc chặt chẽ hơn, phải chứng minh đầy đủ giấy tờ là cá nhân hay
gia đ́nh thực sự bị chế độ cộng sản ngược đăi. Vượt qua cuộc thanh lọc (tức
“đậu thanh lọc”), đương sự mới được đi định cư, nếu không vượt qua cuộc
thanh lọc (tức “hỏng thanh lọc”), đương sự sẽ bị trả về Việt Nam. Những
người đậu thanh lọc c̣n phải qua thêm một cuộc phỏng vấn của phái đoàn
quốc gia ḿnh muốn xin định cư, và nếu bị bác đơn th́ phải xin đi nước
khác.
3. Ra đi
có trật tự, H.O., con lai, du học, xuất khẩu lao động
Ngoài đa số người ra đi bằng thuyền, c̣n có khá nhiều người ra đi bằng
đường hàng không, theo hai chương tŕnh O. D. P. và H.O. Orderly
Departure Program viết tắt là O. D. P. tức chương tŕnh “Ra đi có trật
tự” do thân nhân bảo lănh, bắt đầu từ 1979.
Văn pḥng O.D.P. lúc đầu mở tại Bangkok, thủ đô Thái Lan vào tháng
1-1980. Chương tŕnh O.D.P. đă đưa gần 500,000 người Việt tái định cư ở
Hoa Kỳ. Văn pḥng O.D.P. ở Bangkok ngưng nhận hồ sơ từ ngày 14-9-1994 và
đến năm 1999 th́ văn pḥng nầy đóng cửa. Ṭa lănh sự Hoa Kỳ ở Sài G̣n từ
đây phụ trách việc xin cứu xét hồ sơ bảo lănh.(4)
H.O. là chữ người Việt thường dùng để gọi chương tŕnh The Special
Released Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương tŕnh
tái định cư cựu tù cải tạo được phóng thích), hay c̣n gọi là
Humanitarian Operation Program (Chương tŕnh H.O.). Chương tŕnh nầy bắt
đầu từ năm 1989, do chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho các nhân viên và quân
nhân VNCH bị ba năm tù cộng sản trở lên, cùng gia đ́nh, tái định cư tại
Hoa Kỳ. Có tài liệu cho rằng từ 1989 đến 2002, số cựu tù nhân chính trị
cùng thân nhân, kể cả những người đi theo diện tỵ nạn trong chương tŕnh
Tu chính án McCain (McCain Amendment Program), đến Hoa Kỳ định cư lên
đến hơn 210,000 người.(5)
Bên cạnh đó, c̣n có
chương tŕnh “Con lai” Mỹ. Trẻ Lai Mỹ được chính phủ Hoa Kỳ định nghĩa
là "Ngoại kiều sinh tại Việt Nam sau ngày 1 tháng 1 năm 1962 và trước
ngày 1 tháng 1 năm 1976 và có cha là công dân Hoa Kỳ"
. Số con lai Mỹ cùng gia
đ́nh đến Hoa Kỳ định cư lên đến khoảng 100,000 người.(6)
Thêm vào đó, sau năm 1975 có một số người ra đi do du học hoặc xuất khẩu
lao động qua Liên Xô và các nước Đông Âu. Khi chế độ cộng sản tại các
nước nầy sụp đổ vào những năm 1990-1991, nhiều sinh viên du học hay
những người xuất khẩu lao động đă xin ở lại tỵ nạn. Số nầy lên đến
khoảng trên 100,000 người (số liệu trong nước cho biết khoảng 300,000
người), rải rác ở Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungaria, Đông Đức... Hiện nay
nhiều người trong số nầy đă chuyển qua các nước phương tây định cư.
4. Cộng
đồng Người Việt Hải ngoại
Dầu di tản hay vượt biên từ năm 1975, hoặc ra đi theo các chương tŕnh
O.D.P., H.O., hay xin tỵ nạn từ các nước Đông Âu, và dầu hiện nay người
Việt ở hải ngoại theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng căn
nguyên của tất cả người Việt ở hải ngoại trên thế giới hiện nay đều mang
tính cách chung là người Việt tỵ nạn cộng sản.
Như thế căn cước của Cộng
đồng người Việt hiện nay trên thế giới là cộng đồng người Việt tỵ nạn
cộng sản. Nếu ai cho rằng ḿnh không phải là người tỵ nạn cộng sản th́
đă được mời về nước ngay từ đầu. Chính v́ cùng một mẫu số
chung (tỵ nạn cộng sản), người Việt dễ dàng thông cảm nhau và dần dần
tập họp lại với nhau thành những nhóm nhỏ (hội đồng hương, hội đồng
nghiệp…), rồi tập họp thành CĐNVHN, chứ sau ngày 30-4-1975, những thành
viên cũ trong chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa không thành lập chính phủ lưu
vong nhằm quy tụ người Việt.
Người Việt tỵ nạn tập trung đông nhất tại Hoa Kỳ, sau đó đến Úc Châu,
Canada và Âu Châu. Có một số ít ở vài nước Á Châu như Nhật, Singapore,
Phi Luật Tân. Riêng tại Hoa Kỳ, thống kê dân số năm 2007 cho thấy người
Mỹ gốc Việt là 1,642,950, chiếm 0,55% dân số Hoa Kỳ.(7) Người Việt vốn
quen với khí hậu nắng ấm miền nhiệt đới ở Việt Nam, nên sau khi nhập cư
vào Hoa Kỳ, tạm thời ổn định đời sống, người Việt thường t́m đến sinh
sống ở các tiểu bang nắng ấm miền nam Hoa Kỳ như California, Florida,
Texas. Tại California, ở Orange County, các thành phố Garden Grove,
Westminster, Santa Ana, Fountain Valley họp thành trung tâm Little Sài
G̣n, được xem là thủ đô của người Việt tỵ nạn trên thế giới.
Tính chung, tổng số người Việt ở hải ngoại hiện nay được ước lượng
khoảng ba triệu người. Dân số nầy sẽ c̣n tăng nữa theo thời gian. Nhờ
sống tại các nước TỰ DO DÂN CHỦ, người Việt hải ngoại có điều kiện học
hỏi, phát triển khả năng, đỗ đạt nhiều và đỗ đạt cao, làm việc chăm chỉ,
nên người Việt càng ngày càng thành công tại các nước định cư.
Nhờ thế CĐNVHN nhanh chóng
lớn mạnh.
Về phương diện tôn giáo,
người Việt hải ngoại tiếp tục theo những tôn giáo ở trong nước, và phát
triển tôn giáo của ḿnh một cách mạnh mẽ. Nhiều chùa Việt được xây dựng
khắp nơi trên thế giới. Nhiều họ đạo Ky-Tô có nhà thờ riêng cho người
Việt. Đạo Cao Đài và Phật giáo Ḥa Hảo được tự do truyền đạo và hành đạo,
không bị đàn áp, ngược đăi như hiện nay ở trong nước.
Về phương diện văn hóa, tại bất cứ nước nào, các cộng đồng người Việt
hiện nay đều hoạt động tự phát rất tích cực. Ở một số địa phương, Việt
ngữ trở nên một môn học chính thức trong học đường. Nhiều
trường dạy tiếng Việt cho con cháu được mở ra. Tuy không phải là quê
hương ruột thịt của ḿnh, nhưng ở một số thị trấn, sinh hoạt hầu như
hoàn toàn bằng tiếng Việt.
Nhờ hệ thống chính trị tự do dân chủ nơi quê người, văn học, nghệ thuật,
âm nhạc, nghiên cứu, tiểu thuyết, báo chí người Việt hải ngoại rất đa
dạng và phát triển mạnh mẽ. Nếu tính theo tỷ lệ dân số, th́ ở hải ngoại,
văn hóa phát triển mạnh mẽ hơn trong nước hiện nay. Nếu tính theo chiều
không gian, th́ báo chí, tác phẩm văn học Việt Nam ở hải ngoại bao trùm
rộng răi cả thế giới. Từ Mỹ Châu, qua Âu Châu, đến Úc Châu. Ngoài những
tác giả viết sách bằng tiếng Việt, nhiều tác giả viết sách bằng tiếng
nước ngoài, cũng như nhiều tác phẩm Việt ngữ đă được dịch ra tiếng nước
ngoài.
Về phương diện chính trị, sau khi tạm ổn định đời sống nơi vùng đất mới,
đồng bào tỵ nạn hải ngoại tiếp tục cuộc tranh đấu chống cộng đang c̣n
dang dở. Lúc đầu, nhiều người tham gia phong trào vơ trang chiến đấu,
t́m đường trở về phục quốc. Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan cũng như
khách quan, các phong trào nầy đă thất bại. Sau đó, theo cách thức tranh
đấu tại các nước tự do dân chủ, người Việt quay qua vận động chính trị
bất bạo động và chống cộng sôi nổi khắp nơi trên thế giới.
Sau hai thập niên tỵ nạn, sang đầu thế kỷ 21, CĐNVHN bắt đầu đi vào
chính lưu (mainstream) sinh hoạt chính trị tại những nơi ḿnh sinh sống.
Nhiều người Việt Hoa Kỳ, Canada, Úc, Anh, Pháp … đắc cử vào các Hội đồng
địa phương, các cơ quan hành pháp và lập pháp ở mọi cấp.
Về phương diện kinh tế, người Việt vốn thông minh, chăm chỉ, cần cù,
chịu khó, tiết kiệm, giản dị, nên khá thành công trong sinh hoạt kinh tế,
đóng góp không ít vào các nước định cư. Hiện nay, nh́n chung đời sống
người Việt ở hải ngoại tương đối sung túc, nhất là những người lập
nghiệp từ năm 1975. Một số người Việt bắt đầu làm chủ các cơ xưởng vừa,
một số bước vào giới triệu phú nhỏ.
5. Biểu
tượng Cộng đồng Người Việt Hải ngoại
Khi rời đất nước ra đi t́m dự do, người Việt mang theo trong trái tim
ḿnh toàn bộ h́nh ảnh quê hương gia đ́nh, bà con, bạn bè thân thiết và
đặc biệt h́nh ảnh tượng trưng cho chế độ dân chủ tự do mà ḿnh đă sống,
dù chế độ đó chưa được hoàn thiện: đó là lá CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ của Quốc
Gia Việt Nam và sau đó Việt Nam Cộng Ḥa.
Trong hầu hết các sinh
hoạt cộng đồng đều có làm lễ chào cờ quốc gia địa phương và chào cờ VNCH.
Dần dần, khi đi vào chính lưu ḍng sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ, người Mỹ
gốc Việt vận động các cấp lập pháp địa phương thừa nhận lá cờ VNCH là
biểu tượng chính thức của cộng đồng người Việt.
Đầu tiên, ngày 19-2-2003, thành phố Westminster ở California ra nghị
quyết số 3750, thừa nhận Lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng chính thức
của Cộng đồng Việt Nam Westminster. Từ đó, nhiều thành phố và nhiều tiểu
bang tại Hoa Kỳ đă theo gương Westminster, thừa nhận biểu tượng của
CĐNVHN. Cho đến năm 2009, trên toàn nước Mỹ, có 14 tiểu bang, 7 quận hạt
(county) và 88 thành phố công nhận Cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của
CĐNVHN.(8)
6. Ảnh hưởng
của CĐNVHN đối với Việt Nam
Ngay từ những ngày đầu
được h́nh thành, CĐNVHN chẳng những đóng góp cho các nước ḿnh đang định
cư, mà c̣n tác động ngược trở về trong nước.
Về kinh tế, sau khi định cư, người Việt cặm cụi làm ăn vừa để nuôi sống
gia đ́nh, vừa để có tiền gởi về giúp thân nhân. Lúc đầu là những thùng
quà và chuyển ngân bất hợp pháp qua các tư nhân. Sau đó, những đại lư
chuyển tiền mọc ra khắp nơi.
Số tiền gởi về càng ngày càng nhiều. Theo nguồn tin của đài phát thanh
RFA ngày 05-01-2011, th́ vào năm 2010, số tiền người Việt ở nước ngoài
gởi về giúp đỡ thân nhân và đầu tư lên đến khoảng 8 tỷ Mỹ kim. (Web đài
RFA, trang lưu trữ, ngày 5-01-2011.) Dầu số tiền nầy chỉ để giúp bà con,
gia đ́nh, nhưng gia đ́nh là đơn vị căn bản của xă hội, nên viện trợ cho
gia đ́nh c̣n có nghĩa là viện trợ cho xă hội, do đó số tiền lớn lao nầy
cũng đă nâng đỡ rất nhiều nền kinh tế hiện nay trong nước. (Năm 1975, để
có thể tiếp liệu cho chiến trường, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, xin
chính phủ Hoa Kỳ viện trợ 300 triệu Mỹ kim, mà Quốc hội Hoa Kỳ từ chối.)
Về chính trị, CĐNVHN là những người tỵ nạn CS. Lập trường của đại đa số
trong CĐNVHN là lập trường chống cộng. CĐNVHN luôn luôn vinh danh lá Cờ
vàng ba sọc đỏ và đồng thời chận đứng sự xuất hiện của cờ CS. Nơi nào có
cờ CS xuất hiện là CĐNVHN kiếm cách triệt hạ ngay.
Đặc biệt hơn, vào tháng 5-2004, Hội đồng hai thành phố Westminster và
Garden Grove ở Little Sài G̣n đă ra “Nghị quyết không hoan nghênh”
(Unwelcome Resolution) buộc cơ quan Cảnh sát địa phương phải thông báo
cho Hội Đồng Thành phố trước mười bốn ngày để xin bảo vệ an ninh khi có
phái đoàn chính thức của CHXHCNVN đến viếng thăm thành phố.
Ngoài ra, CĐNVHN theo dơi thật sát những diễn tiến chính trị ở trong
nước, lên án những vụ vi phạm nhân quyền, những cuộc bắt giam tù nhân
lương tâm của nhà nước cộng sản. Những cuộc vận động nầy phần nào tác
động đến nhà cầm quyền CS, làm cho họ giảm bớt việc thủ tiêu, hay đàn áp
đẫm máu những nhà tranh đấu đối lập như trước đây, đồng thời tạo nên
điểm tựa tinh thần, yểm trợ những phong trào đ̣i hỏi dân chủ ở trong
nước.
Ở hải ngoại, sống trên đất nước tự do, mỗi người có quyền tự do suy nghĩ,
hành động độc lập, nên trong CĐNVHN có một thiểu số muốn “ḥa giải ḥa
hợp” với cộng sản. Những người nầy có hai lư do: Hoặc họ cộng tác làm ăn
với một số tổ chức nước ngoài đang qua Việt Nam đầu tư, nhất là từ khi
chính phủ Hoa Kỳ bỏ cấm vận Việt Nam năm 1995. (Chính phủ hay thương
nhân nước ngoài hành động theo quyền lợi của riêng họ.) Hoặc chính những
người nầy trực tiếp về Việt Nam đầu tư kinh doanh, đưa sản phẩm về tiêu
thụ, in ấn sách vở. Tốt nhất, những ai muốn ḥa hợp ḥa giải với chế độ
cộng sản trong nước, nên đem vợ con, gia đ́nh về hẳn trong nước sinh
sống, th́ sẽ có cơ hội tận hưởng được sự ḥa hợp ḥa giải nầy, chứ đừng
ở nước ngoài xúi người khác làm những điều đầu môi chót lưỡi.
Bên cạnh đó, nhà nước cộng sản Việt Nam đang cố gắng tuyên truyền để
triển khai thực hiện nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị
đảng CSVN, nhắm lôi cuốn người Việt định cư ở nước ngoài trở về hợp tác
với nhà nước CSVN và chia rẽ CĐNVHN. Tuy nhiên, nghị quyết nầy không đạt
được tác dụng như ư của CSVN v́ qua tin tức gia đ́nh, qua mạng lưới
thông tin quốc tế, qua lời truyền miệng của những người đă từng về Việt
Nam, CĐNVHN nắm biết rất rơ thực trạng độc tài, tham nhũng và nhất là
hèn nhát đối với Bắc Kinh của chế độ hiện nay ở trong nước.
Về văn hóa, khi chiếm
được miền Nam, Cộng sản Việt Nam đốt sách miền Nam, quyết tâm tiêu diệt
nền văn hóa dân tộc cổ truyền c̣n được bảo lưu ở miền Nam, và thay thế
bằng văn hóa Mác-xít. Ai cũng thấy rơ t́nh trạng văn hóa và giáo dục
đang càng ngày càng suy đồi. Trong khi đó, ra nước ngoài, người Việt làm
tất cả các cách phát huy nền văn hóa tự do, nhân bản, khai phóng cổ
truyền của dân tộc. Trên nền tảng văn hoá dân tộc, người Việt hải ngoại
c̣n được thêm cơ hội học hỏi, nghiên cứu văn hóa các nước trên thế giới,
tạo thành ḍng văn hóa và văn học Việt Nam hải ngoại hết sức sinh động.
Ngoài sự tiếp xúc văn hóa trong đời sống b́nh thường giữa người Việt
trong và ngoài nước (thăm viếng, du lịch), ḍng văn hóa và văn học Việt
Nam hải ngoại được đưa lên các mạng lưới toàn cầu, truyền về trong nước,
góp phần làm dồi dào đời sống văn hóa trong nước, giúp mở mang kiến thức
giới trẻ, vốn bị CS nhồi sọ trong nền văn hóa Mác-xít.
Kết luận
Sự thành lập CĐNVHN là một
hiện tượng đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Đặc biệt v́ các lư do sau
đây:
Thứ nhất,
thông thường, khi chiến tranh xảy ra, người ta bỏ xứ đi nơi khác để
tránh lửa đạn; đến khi ḥa b́nh trở lại, người ta hồi hương về chốn cũ.
Đàng nầy, sau ngày 30-4-1975, chiến tranh chấm dứt, ḥa b́nh trở lại mà
người Việt lại bỏ xứ ra đi hết sức đông đảo. Đây là nghịch lư thứ nhất.
Thứ hai,
nghịch lư thứ hai là khi người Việt bỏ nước ra đi, nhà cầm quyền Cộng
sản Việt Nam ngăn chận, bắn giết, tù đày, ngược đăi, sỉ nhục, chửi mắng
những người di tản và vượt biên. Ngay ngày 30-4-1975, Trịnh Công Sơn đă
lên đài phát thành Sài G̣n gọi những người di tản là “phản quốc”. Trong
khi đó, khi được tái định cư ở một nước khác, người Việt nhanh chóng xây
dựng đời sống mới. Chẳng những đóng góp cho quê hương thứ hai của ḿnh,
chính những người Việt bị gọi là phản quốc đó đă gởi tiền về cứu giúp
thân nhân trong nước, từ đó cứu văn luôn nền kinh tế suy sụp bấp bênh
của Việt Nam dưới chế độ cộng sản.
Thứ ba, khi ra
nước ngoài từ 1975, nhờ cùng mẫu số chung là tỵ nạn cộng sản, người Việt
hải ngoại dần dần tự động tập họp thành CĐNVHN. Càng ngày CĐNVHN càng
phát triển, đưa đến nhiều ảnh hưởng quan trọng ngược về trong nước về
kinh tế, chính trị, văn hóa, và thúc đẩy những thay đổi hiện nay ở trong
nước.
Trước đây, trong lịch sử thế giới, những người Trung Hoa hải ngoại đă
giúp nâng cao tŕnh độ hiểu biết chính trị về thế giới của những người
trong nước, ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911. Sau
đó, những người Ba Lan lưu vong từ năm 1945, đă cổ vơ, viện trợ và thúc
đẩy cuộc cách mạng ở Ba Lan vào cuối thập niên 80 vừa qua.
Với đà phát triển như hiện nay, chắc chắn CĐNVHN tiếp tục lớn mạnh và
tiếp tục tác động mạnh hơn nữa vào xă hội trong nước, cũng như tiếp tay
với những phong trào đ̣i hỏi dân chủ ở trong nước, nhằm chấm dứt chế độ
độc tài cộng sản, mới mong xây dựng một nước Việt Nam tự do, độc lập và
phú cường.
************************************************************************************
Bài, do tác giả gởi. DCVOnline
biên tập và minh hoạ. Chú thích của tác giả.
1. Đợt nầy đa số là người Việt gốc Hoa vượt biên, theo phong trào "bán
chính thức". Khoảng một nửa số qua Trung Quốc, lúc đó đang đối đầu với
Việt Nam cộng sản. Số c̣n lại qua Hồng Kông và các đảo Đông Nam Á.
2. Người Việt Trẻ, “Người Việt tỵ nạn và định cư”, bài 3: “Các làn sóng
tỵ nạn Việt Nam”, Người Việt Online, California, ngày 28-10-2004.
3. http://en.wikipedia.org/wiki/Orderly_Departure_Program
4. Phan Đức Thông, “Những làn sóng người Việt định cư tại Hoa Kỳ”
(http://www.ninh-hoa.com/LuatDiTruNhungLansongTiNan.htm)
5. David Lamb, “Children of the Vietnam War”, Smithsonian Magazine,
Washington DC, June, 2009. Tạp chí nầy được đưa lên web site: http://www.smithsonianmag.com/people-places.
Bài báo nầy cho biết số con lai khoảng 26,000 người đi cùng với gia đ́nh
và bà con khoảng 75,000 người. Theo tác giả Huỳnh Kim Khánh (New Jersey)
viết ngày 17-7-2004, Đàn Chim Việt Online Edition đăng lại ngày
28-11-2010 th́ từ 1979 đến 1999 những ngơời đến Hoa Kỳ theo chương tŕnh
con lai là 89.700 người
6. Wikipedia, “Người Việt ở Mỹ”. Năm 2007, tổng dân số Hoa Kỳ là 301
triệu. Năm 2010, tổng dân số Hoa Kỳ là 308, 745, 538 người.
7. Diễn đàn sinh viên Quân y, , bài “Tin tức thời sự: Khuyên các cụ”.
|