http://leanhhungblog.blogspot.com/2013/06/quan-he-cua-my-voi-viet-nam.html
Điều trần
Washington, DC
| 5.6.
2013 | Thưa ngài Chủ tịch Faleomaveaga và các
thành viên Tiểu ban, rất cám ơn quư vị hôm nay đă mời
tôi đến đây để điều trần về mối quan hệ của Hoa Kỳ với
Việt Nam. Đây c̣n là niềm vinh hạnh của tôi khi được
điều trần với người đồng nghiệp, Phó Trợ lư Ngoại trưởng
Dan Baer đến từ Vụ Dân chủ, Lao động và Nhân quyền. Phó
Trợ lư Ngoại trưởng Dan Baer sẽ thảo luận chi tiết về
t́nh h́nh nhân quyền ở Việt Nam. Trong phần điều trần
của ḿnh, tôi sẽ phác hoạ một bức tranh tổng quan về mối
quan hệ kinh tế, an ninh, quân sự – quân sự và nhân dân
– nhân dân với Việt Nam. Mối quan hệ song phương với
Việt Nam đang phát triển thành một mối quan hệ đối tác
quan trọng và ngày càng rơ nét. Hiện nay, chúng ta đang
phát triển trên nền tảng lợi ích chung của ḿnh trong
một Châu Á – Thái B́nh Dương ổn định, an ninh và thịnh
vượng. Nỗ lực của chúng ta ở Việt Nam tập trung vào việc
thúc đẩy một nền kinh tế theo định hướng thị trường, một
nền kinh tế mở cửa với hàng hoá và đầu tư từ Mỹ; thúc
đẩy hoà b́nh và an ninh khu vực; nâng cao thái độ tôn
trọng dành cho nhân quyền, tự do tôn giáo, quản trị nhà
nước hiệu quả (good governance) và pháp trị (rule of
law); và thúc đẩy phúc lợi và sức khoẻ cho con người.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng mối quan ngại của chúng tôi về
nhân quyền là một nhân tố xuyên suốt mọi khía cạnh liên
quan đến cách tiếp cận chính sách và sự can dự của chúng
ta với Việt Nam. Chúng tôi tin rằng việc Chính phủ Việt
Nam thể hiện thái độ tôn trọng nhân quyền tốt hơn sẽ
giúp đảm bảo cho sự phát triển kinh tế, xă hội và chính
trị của đất nước này trong tương lai và cho phép tăng
cường mối quan hệ song phương với chúng ta. Chúng tôi đă
nhấn mạnh với các nhà lănh đạo Việt Nam rằng nhân dân Mỹ
sẽ không ủng hộ việc tăng cường mạnh mẽ quan hệ song
phương nếu không có tiến bộ rơ rệt về nhân quyền.
Thật hữu ích khi đánh giá xem chúng ta đă đi tới đâu
trong mối quan hệ song phương của ḿnh kể từ khi hai
nước b́nh thường hoá quan hệ ngoại giao năm 1995. Mười
tám năm trước, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Hoa
Kỳ và Việt Nam chỉ là 450 triệu USD, gần như chỉ bằng
sai số làm tṛn trong giá trị giao dịch thương mại toàn
cầu của chúng ta. Với việc hoàn tất hiệp định thương mại
song phương năm 2001, quan hệ kinh tế đă cất cánh. Hiện
nay, kim ngạch thương mại hai chiều của chúng ta với
Việt Nam đạt tới gần 25 tỷ USD mỗi năm, và Việt Nam đă
thu hút trên 10 tỷ USD đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ – một
lợi ích đáng kể cho cả hai quốc gia. Quyết định của các
nhà lănh đạo Việt Nam trong thập niên 1980 khi vứt bỏ
chế độ kế hoạch hoá nhà nước theo kiểu Soviet và đưa
Việt Nam hội nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu đă
giúp Việt Nam đạt được nhiều thành quả trong tăng trưởng
kinh tế và phát triển. Đúng là Việt Nam vẫn tiếp tục
phải vật lộn với những vấn đề về tham nhũng, về các DNNN
thiếu hiệu quả, và về sự phân phối của cải bất b́nh đẳng,
song điều quan trọng là phải thừa nhận những thành tựu
của Việt Nam về xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là trong
hai thập niên vừa qua. Tôi tin rằng sự can dự về mặt
kinh tế của Mỹ đă đóng một vai tṛ quan trọng trong quá
tŕnh chuyển tiếp đang diễn ra ở đây.
Việc nêu bật vai tṛ thiết yếu mà những người Mỹ gốc
Việt vẫn đang đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam là
điều rất quan trọng. Chúng tôi coi cộng đồng người Mỹ
gốc Việt là một đối tác chủ chốt trong việc tăng cường
mối quan hệ song phương, và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đánh
giá cao cuộc đối thoại thường xuyên của chúng tôi với
nhóm người ủng hộ then chốt này. Như là một phần trong
nỗ lực liên tục này, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David
Shear đang thực hiện chuyến viếng thăm California tuần
này và sẽ tổ chức một số sự kiện tại toà thị chính ở cả
Quận Cam (Orange County) lẫn thành phố San Jose để lắng
nghe những quan ngại của người Mỹ gốc Việt và thảo luận
chính sách của chúng ta đối với Việt Nam.
Các doanh nghiệp thuộc sở hữu của người Mỹ gốc Việt đă
đầu tư hàng trăm triệu USD vào Việt Nam, và ngày càng có
nhiều người Mỹ gốc Việt sang làm việc tại Việt Nam,
nhiều trong số đó là giám đốc điều hành trong các công
ty đa quốc gia hoạt động ở Việt Nam. Lượng kiều hối
khoảng 7 tỷ USD từ Mỹ gửi về Việt Nam hàng năm cung cấp
nguồn vốn cho những hoạt động kinh doanh mới và thúc đẩy
tiêu dùng. Tầm ảnh hưởng của người Mỹ gốc Việt vượt ra
ngoài kinh doanh và bao gồm các mối liên kết quan trọng
về văn hoá, giáo dục và gia đ́nh. Sự liên hệ đó là vô
cùng hữu ích, và chúng tôi muốn khuyến khích nhiều hơn
thế, đặc biệt là trong số các thế hệ trẻ hơn. Chắc chắn
là ở đây vẫn tồn tại những bất đồng và những mối nghi
ngại đeo đẳng, vốn là di sản của cuộc chiến tranh Việt
Nam. Những Việt kiều muốn quê hương ḿnh trở nên cởi mở,
dân chủ và thịnh vượng hơn thường xuyên bị soi xét với
con mắt nghi ngại từ phía lực lượng an ninh Việt Nam.
Chúng tôi đă hối thúc Chính phủ Việt Nam mở rộng ṿng
tay hơn nữa với những người Mỹ gốc Việt và giải quyết
những quan ngại về nhân quyền của cộng đồng này, một mối
bận tâm mà Chính phủ Mỹ chia sẻ.
Trọng tâm trong nghị tŕnh kinh tế của chúng ta với Việt
Nam là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái B́nh Dương (TPP),
một hiệp định thương mại tự do khu vực trong thế kỷ 21
giúp hội nhập nền kinh tế Việt Nam với các quốc gia ở cả
hai phía của khu vực Châu Á – Thái B́nh Dương. Để thu
được lợi ích kinh tế từ việc tham gia hiệp ước thương
mại và đầu tư thượng thặng trong khu vực này, Việt Nam
cần phải mở cửa các thị trường hàng hoá, dịch vụ và đáp
ứng những tiêu chuẩn cao trong một loạt lĩnh vực, bao
gồm việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, sự minh bạch và
công khai trong thông lệ mua sắm của chính phủ, việc
thắt chặt ưu đăi dành cho các DNNN, sự tự do hoá thông
tin nhằm thúc đẩy nền kinh tế số (digital economy), các
biện pháp bảo hộ lao động hữu hiệu dành cho công nhân,
v.v và v.v. Hoàn tất bản hiệp định sẽ là một thách thức,
song phần thưởng từ đó lại đáng kể – phân tích sơ bộ cho
thấy Việt Nam sẽ là một trong những đối tượng thụ hưởng
nhiều nhất từ TPP. Sự hỗ trợ kỹ thuật từ phía Mỹ vẫn
tiếp tục nhằm trợ giúp Chính phủ Việt Nam trong việc
giải quyết một loạt vấn đề thương mại và đầu tư mới nằm
trong nghị tŕnh đàm phán của TPP và nhằm giữ đà cho
những cải cách thị trường, hiện đại hoá và hội nhập của
Việt Nam. Ngoài việc tham gia TPP, Việt Nam c̣n có nhiều
tham vọng phát triển một nền kinh tế kỹ thuật cao và dựa
vào tri thức, song những dự thảo quy định nhằm kiểm soát
internet và quản lư nội dung phát sóng của các đài
truyền h́nh nước ngoài lại đi ngược lại mục tiêu đó.
Chúng tôi thường kéo các quan chức Việt Nam vào cuộc để
nhấn mạnh rằng, xây dựng một nền kinh tế năng động, sáng
tạo đ̣i hỏi phải cho phép mọi người tự do suy nghĩ, sáng
tạo và tận dụng hết lợi thế của môi trường thương mại và
đầu tư mà TPP sẽ tạo ra.
Công cuộc hợp tác của chúng ta về những chủ đề khu vực
đă tiến khá xa. Kể từ khi đảm nhiệm rất thành công vai
tṛ chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đă củng cố vị thế
của ḿnh như một nhà lănh đạo khu vực. Chúng tôi đă làm
việc cùng nhau trong ASEAN và các diễn đàn đa phương
khác nhằm khuyến khích việc thảo luận về an ninh hàng
hải, hỗ trợ nhân đạo, và các chủ đề cứu trợ thảm hoạ mà
khu vực phải đối mặt. Hoa Kỳ cũng ủng hộ những nỗ lực
của Việt Nam và các thành viên ASEAN khác trong việc đàm
phán với Trung Quốc về một Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) trên
Biển Đông cũng như trong việc giải quyết tranh chấp
thông qua các biện pháp ngoại giao hay các biện pháp ôn
hoà khác, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả Công
ước LHQ về Luật Biển. Chúng tôi nhận ra rằng sự thịnh
vượng của khu vực dựa trên sự ổn định liên tục, đặc biệt
là trên Biển Đông, và chúng tôi ủng hộ những nỗ lực của
khu vực trong việc xử lư những tranh chấp này mà không
phải viện đến vũ lực hay đe doạ. Ngoài ra, chúng tôi c̣n
làm việc với nhau nhằm thúc đẩy sự phát triển trong tiểu
vùng sông Mê Kông thông qua Sáng kiến Hạ vùng Mê Kông (LMI).
Trên phương diện ngoại giao của mối quan hệ, Hoa Kỳ và
Việt Nam đang hợp tác chặt chẽ hơn về các chủ đề an ninh
khu vực và toàn cầu. Việt Nam và Hoa Kỳ cùng chia sẻ lợi
ích chung trong việc duy tŕ hoà b́nh và an ninh ở Đông
Nam Á và, rộng hơn, ở khu vực Châu Á – Thái B́nh Dương.
Chúng tôi đánh giá cao cam kết của Việt Nam trong việc
không phổ biến vũ khí hạt nhân, kể cả việc họ phê chuẩn
Nghị định thư Bổ sung của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế (International Atomic Energy Agency’s Additional
Protocol) năm ngoái và hoàn thành việc dỡ bỏ uranium với
độ giàu cao ra khỏi ḷ nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Việt
Nam nằm dọc theo các tuyến hàng hải huyết mạch, và Hoa
Kỳ đang làm việc với Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức
của Việt Nam về lĩnh vực hàng hải và tăng cường lực
lượng cảnh sát biển để Hà Nội có thể trở thành một đối
tác c̣n mạnh mẽ và hiệu quả hơn trong công cuộc chống
buôn lậu ma tuư, cướp biển, cũng như hoạt động vận
chuyển ngầm liên quan đến vũ khí huỷ diệt hàng loạt.
Chúng tôi đang nâng cao các hoạt động trao đổi quân sự
và tiến hành các cuộc huấn luyện chung trong hoạt động
t́m kiếm, cứu hộ và cứu trợ thảm hoạ. Hoa Kỳ hoan nghênh
các kế hoạch triển khai quân đội ở nước ngoài lần đầu
tiên của Việt Nam nhằm ủng hộ sứ mạng ǵn giữ hoà b́nh
của LHQ trước năm 2015. Để hỗ trợ cho nỗ lực này, Hoa Kỳ
đang cung cấp các chương tŕnh giáo dục quân sự chuyên
nghiệp với nội dung đa dạng cho quân đội Việt Nam nhằm
giúp họ chuẩn bị cho các sứ mạng này.
Mặc dù chúng ta dự định theo đuổi mối quan hệ an ninh
gần gũi hơn với Việt Nam, ở đây vẫn tồn tại những giới
hạn về mối quan hệ quân sự – quân sự liên quan đến nhân
quyền. Năm 2007, chính phủ Mỹ đă điều chỉnh lệnh cấm bán
hàng hoá quốc pḥng cho Việt Nam nhằm cho phép việc bán
thiết bị quân sự phi sát thương trên cơ sở từng thương
vụ. Chúng tôi sẽ tiếp tục ủng hộ nỗ lực của Việt Nam
trong việc hiện đại hoá quân đội trong phạm vi phi sát
thương nhằm hỗ trợ những ưu tiên về an ninh mà tôi đă
phác hoạ ở trên. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đă nêu rơ với
các nhà lănh đạo quân sự và dân sự của Việt Nam rằng để
Hoa Kỳ cân nhắc việc dỡ bỏ những hạn chế c̣n lại đối với
các thiết bị quốc pḥng xuất khẩu, kể cả các vũ khí sát
thương, Việt Nam cần phải có sự cải thiện liên tục, rơ
rệt và bền vững về t́nh h́nh nhân quyền.
Chúng ta có một lịch sử khó khăn, song cả hai bên đều đi
đến giải quyết những vấn đề di sản chiến tranh theo một
cách thức mà qua đó đă giúp xây dựng ḷng tin và thiện
chí đáng kể. Hơn hai chục năm nay, Việt Nam đă hỗ trợ
hoạt động t́m kiếm hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong
chiến tranh. Cuộc hợp tác này bắt đầu từ thập niên 1980
và theo nhiều cách khác nhau đă sưởi ấm mối quan hệ băng
giá và xây dựng ḷng tin, dẫn đến việc b́nh thường hoá
quan hệ ngoại giao năm 1995. Tháng Tư năm nay, 693 bộ
hài cốt đă được phát hiện tại các khu vực bên trong lănh
thổ Việt Nam và chuyển về cho các gia đ́nh để an táng ở
Mỹ. Việt Nam cũng từng bước dỡ bỏ những hạn chế đối với
những khu vực nhậy cảm từng bị cấm chỉ đối với các đội
t́m kiếm của chúng ta.
Chúng tôi cam kết giúp Việt Nam giải quyết vấn đề bom
đạn chưa phát nổ (UXO). Từ năm 1998, Bộ Ngoại giao, với
sự hỗ trợ của Quốc hội, đă cung cấp trên 35 triệu USD
nhằm hỗ trợ hoạt động rà phá bom ḿn cùng các chương
tŕnh giáo dục cộng đồng nhằm mục đích giảm bớt thương
vong. Mục tiêu chung của chúng tôi là giảm con số thương
vong liên quan đến UXO ở Việt Nam. Chúng tôi cũng tài
trợ cho các chương tŕnh giúp đỡ nạn nhân của vật liệu
nổ trong chiến tranh với hoạt động đào tạo nghề, cung
cấp các bộ phận cơ thể nhân tạo được sản xuất chuyên
nghiệp, và các hoạt động hỗ trợ khác.
Trong số những vấn đề gắn với cuộc chiến, giải quyết
t́nh trạng ô nhiễm dioxin là thách thức lớn nhất. Tháng
Tám vừa qua, USAID đă bắt đầu thực hiện dự án xử lư điểm
nóng dioxin tại căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Đà Nẵng.
Dự án này là một trong những nỗ lực xử lư phức tạp và
tốn kém nhất mà chính phủ Mỹ từng thực hiện ở nước ngoài.
Việc hoàn thành dự án ở Đà Nẵng đ̣i hỏi sự hỗ trợ liên
tục của Quốc hội và sự hợp tác chặt chẽ với các đối tác
Việt Nam của chúng tôi. Hoa Kỳ hy vọng rằng trong tương
lai gần, chúng ta có thể làm việc với Việt Nam để giải
quyết xong các vấn đề liên quan đến chất độc màu da cam.
Mối quan hệ hướng tới tương lai của chúng ta với Việt
Nam thể hiện rơ nét nhất qua hiện tượng bùng nổ các mối
quan hệ giữa nhân dân hai nước. Chúng tôi tin tưởng rằng,
việc xây dựng các mối quan hệ này thông qua các cơ hội
trao đổi, qua sự trau dồi văn hoá, và qua các mối quan
hệ giáo dục là ch́a khoá để thiết lập một mối quan hệ
đối tác rộng lớn hơn với nhân dân Việt Nam, một đất nước
có 60% dân số ra đời sau năm 1975. Năm nay Việt Nam có
hơn 15.000 sinh viên đang nghiên cứu tại Mỹ, và là quốc
gia gửi sinh viên sang Mỹ học tập nhiều thứ 8. Đây là
một sự thay đổi ngoạn mục kể từ năm 1995, khi chỉ có 800
sinh viên Việt Nam nghiên cứu tại Mỹ. Chúng tôi cũng làm
việc chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam và các đối tác khác
về cải cách giáo dục trong nước nhằm tăng cường độ thuần
thục tiếng Anh cũng như những kỹ năng khác, những thứ
giúp tạo ra nguồn vốn con người cần thiết để Việt Nam
tham gia hiệu quả hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Cuối
cùng, chương tŕnh Fullbright đă tổ chức lễ kỷ niệm lần
thứ 20 vào năm 2012 và ghi nhận Bộ trường Ngoại giao
Phạm B́nh Minh, Phó TT Nguyễn Thiện Nhân và Đại sứ Việt
Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Cường như là những cựu sinh
viên của ḿnh. Fulbright và các chương tŕnh trao đổi
khác giúp xây dựng sự tin cậy và sự hiểu biết lẫn nhau,
đóng góp vào hàng loạt mục tiêu chiến lược của chúng ta
bằng cách thúc đẩy mối quan hệ của chúng ta với các nhà
lănh đạo hiện tại và tương lai của Việt Nam trong mọi
lĩnh vực của đời sống xă hội.
Chúng tôi có một nghị tŕnh đầy tham vọng với Việt Nam,
một nghị tŕnh bao gồm việc thúc đẩy tự do thương mại và
cải cách kinh tế, tăng cường hợp tác nhằm duy tŕ hoà
b́nh và an ninh ở Đông Nam Á, tiếp tục giải quyết những
vấn đề di sản chiến tranh, và tăng cường các mối quan hệ
giáo dục và văn hoá. Trong bản điều trần này, tôi đă cố
gắng nêu rơ rằng nhân quyền không phải là một vấn đề
tách biệt duy nhất; đúng hơn, đây là một chủ đề liên
quan đến toàn bộ phương pháp chính sách và sự can dự của
chúng ta với Việt Nam. Nói một cách đơn giản, mối quan
hệ của chúng ta sẽ không đạt đến tiềm năng đầy đủ cho
đến khi Việt Nam làm nhiều hơn để bảo vệ các quyền con
người cho công dân của ḿnh và tuân thủ các cam kết của
họ theo Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế.
Phó Trợ lư Ngoại trưởng Dan Baer sẽ cung cấp thêm chi
tiết về chính sách ngoại giao nhân quyền của chúng ta
với Việt Nam, song tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng tôi
đang làm việc hết ḿnh với các quan chức Việt Nam ḥng
đảo ngược một xu hướng trong vài năm qua, đó là t́nh
trạng gia tăng các vụ bắt bớ cùng với những bản án khắc
nghiệt chưa từng thấy, đặc biệt là dành cho các blogger.
Cho đến thời điểm này của năm 2013, Việt Nam đă thực
hiện một số bước đi tích cực về nhân quyền, trong đó có
việc phóng thích luật sư Lê Công Định (dù kèm theo một
số hạn chế) và tiếp đón cuộc viếng thăm của Tổ chức Ân
xá Quốc tế (AI) vào tháng Hai. Chúng tôi hy vọng sẽ được
chứng kiến thêm nhiều vụ phóng thích và nhiều cuộc đối
thoại với các tổ chức phi chính phủ về nhân quyền trong
năm nay. Về tự do tôn giáo, chúng tôi cảm thấy được
khích lệ khi thấy TBT Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ
Giáo hoàng Benedict trong chuyến thăm Vatican vào tháng
Giêng của ông. Chúng tôi cũng hy vọng rằng Việt Nam có
thể đẩy nhanh việc đăng kư các nhóm tôn giáo, đặc biệt
là ở Tây Nguyên và vùng cao Tây Bắc.
Năm nay, chúng ta đă được chứng kiến một cuộc tranh luận
rất sôi nổi giữa các cá nhân thuộc mọi thành phần xă hội
của Việt Nam khi Việt Nam tiến hành sửa đổi hiến pháp.
Hoa Kỳ tôn trọng độc lập và chủ quyền của Việt Nam, và
chúng tôi tin tưởng rằng tất cả mọi người dân Việt Nam
cần có tiếng nói trong việc quyết định tương lai của
Việt Nam. Chúng tôi hối thúc các nhà lănh đạo Việt Nam
tạo ra một môi trường mà ở đó người Việt Nam thuộc mọi
thành phần khác nhau có thể bày tỏ quan điểm chính trị
của ḿnh một cách ôn hoà và tự do, đồng thời được lắng
nghe. Cuộc tranh luận mở và sự bày tỏ quan điểm công
khai như vậy là điều kiện thiết yếu để Việt Nam hướng
tới tương lai ổn định và thịnh vượng mà nó rất xứng đáng
được hưởng.
Xin cám ơn ngài Chủ tịch. Tôi hoan nghênh bất kỳ câu hỏi
nào của quư vị.
Nguồn:
US Department of State
Bản dịch của Lê
Anh Hùng
|