Tuesday, June 11, 2013                       trang chính  ||    lưu trữ    ||   liên lạc

 

Những sự thật cần phải biết (phần 7): Lê Duẩn và sự tàn ác với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa.

 

 

Quá khứ đă trôi qua gần 40 năm , tuy nhiên quá khứ đó vẫn là nỗi đau với nhân dân Việt Nam nói chung và quân dân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa nói riêng. Vết thương không thể lành lặn nếu đảng cộng sản vẫn tiếp tục xúc phạm danh dự của quân dân Việt Nam Cộng Ḥa và đàn áp nhân dân Việt Nam. Tôi viết bài này chỉ xin góp một tiếng nói chân thật của lịch sử nhằm phanh phui tội ác của Lê Duẩn và cộng sản Việt Nam, để như một nén hương với người đă khuất trong lao tù cộng sản hay tri ân những ai đă v́ tự do mà phải chịu đọa đày trong ngục tù cộng sản.

 

Như trong “Những sự thật cần phải biết 6”, bài Lê Duẩn: Kẻ đồng mưu với Hồ Chí Minh tàn sát nhân dân Mậu Thân 1968, tôi đă tŕnh bày với bạn đọc tội ác của Lê Duẩn trong việc đồng mưu cùng Hồ Chí Minh tàn sát hàng ngh́n người dân Huế vô tội tết mậu thân 68. Trong khuôn khổ bài này, tôi xin tŕnh bày về tội ác tiếp theo của Lê Duẩn trong việc trả thù tàn bạo đối với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa sau năm 1975. Đây là một trong những tội ác không thể bỏ qua v́ nó là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).

 

Trên thực tế , những ai là quân dân, cán chính Việt Nam cộng ḥa sau khi bị bị cộng sản đưa vào tù đều thấy điều này. Ngoài ra, gia đ́nh họ bị cộng sản bức hại đi lên vùng kinh tế mới, con em bị ghi lư lịch xấu, nhà của bị tịch thu là những nỗi thống khổ của những quân dân cán chính VNCH. Trong khuôn khổ bài viết này, tội ác của Lê Duẩn và đảng cộng sản đối với quân dân, cán chính Việt Nam cộng ḥa trong lao tù của cộng sản.

 

I. Cả nước Việt Nam là một trại tù khổng lồ : 

 

Thứ nhất, ngày Thứ Hai, 23/7/2007, Website của The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đă trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đă kết luận rằng: "Ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đă đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trên toàn bộ lănh thổ Việt Nam kể cả những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đă bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đă bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung b́nh là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm.” 

 

Đây là một tội ác h́nh sự mang tính lịch sử của đảng cộng sản cộng sản và những người đứng đầu đảng cộng sản. Nó xứng đáng được được đưa vào cáo trạng mà chúng tôi đang thực hiện nhằm đưa tội ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản ra trước ánh sáng công lư.

 

Cũng theo cuộc điều tra nói trên cho biết: “Cứ mỗi ba gia đ́nh tại Miền Nam, có một gia đ́nh có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đă có 165,000 người chết v́ bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết v́ bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn c̣n bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đ́nh họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rơ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đă và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà thủ phạm là Lê Duẩn…”.

 

Thứ hai, trong tập tài liệu ghi bí số TN/QP-14 được lưu chiểu ngày 14/02/1977 tại cục lưu trữ Bộ Quốc Pḥng Cộng sản ghi rơ như sau tại trang số 6: "Tổng số tù nhân tham gia học tập cải tạo để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài G̣n đầu hàng là 1.321.506 người. Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và già yếu trả về với gia đ́nh , bộ quốc pḥng giao lại cho bộ nội vụ quản lư là 1.236.569 người".

 

Qua tài liệu nói trên của nhà nước cộng sản nói lên điều ǵ? Đó là họ đă coi những quân dân cán chính Việt Nam cộng ḥa là những “Tù nhân”. Trên thực tế, họ không phải là tù nhân v́ theo như cộng sản tuyên truyền họ chỉ đi học tập chủ trương đường lối của “cách mạng”. Nhưng chính tài liệu của cộng sản đă coi họ là tù nhân.

 

Ngoài ra con số người mà đảng cộng sản cho biết chính là con số nói lên thực tế về trại tù khổng lồ mà cộng sản cùng Lê Duẩn bày ra nhằm trả thù quân dân cán chính VNCH.

 

Thứ ba, theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo thực sự đều là tù chính trị như sau: “Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, c̣n lại là hạ sỹ quan và binh sĩ . Binh sĩ VNCH bị bắt đi cải tạo sau ngày 30 tháng 4, 1975.AFP/Getty Images – Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng lănh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam. – Đại tá có 600, bị tù 366. – Trung tá có 2.500, bị tù 1.700. – Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500. – Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền. Đây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa, không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm”.

 

Như vậy, mặc dù do thất lạc khi rút bỏ Miền Nam, cộng với những thống kê những người chết do cộng sản đạo đày trong tù th́ những con số mà Viện Bảo tàng cũng cho thấy cộng sản đă biến cả nước Việt Nam thành một địa ngục tù ngục trong chính sách trả thù man rợ của ḿnh đối với những ai liên quan đến VNCH.

 

Thứ tư, để thừa nhận thêm về chính sách bỏ tù quân dân cán chính VNCH, cũng cần phải nhắc lại đảng cộng sản Việt Nam chủ trương theo chủ nghĩa cộng sản độc tài của Liên Xô và Trung Cộng. Hồ Chí Minh khi đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam chủ trương làm tay sai cho quốc tế thứ 3 (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ" phần 4,10,11,12) và làm con tốt thí trong tay sai Liên Xô. Những tư tưởng của Lê Nin đă được Hồ Chí Minh truyền thụ cho đàn em của ḿnh trong việc trả thù những ai bất đồng chính kiến, trong trường hợp này là quân dân quán chính VNCH. V́ vậy nh́n lại Việt Nam sau năm 1975 như một trại tù khổng lồ của cộng sản không có ǵ là điều lạ lùng . Hăy đọc cuốn “Lê Nin và Xă hội chủ nghĩa" xuất bản tại Liên Xô dày 820 trang, tại trang 233 có viết: 

 

"Chiếm được một tỉnh, giải phóng được một nước th́ dễ nhưng giữ yên được đất nước, địa phương ấy mới là khó. Muốn vậy sau khi chiếm được lănh thổ, trước hết phải tập trung giam giữ lâu dài bọn phản động, thành phần làm việc cho chế độ cũ, chỉ khi nào ổn định được xă hội, nắm vững t́nh h́nh an ninh nội chính mới thả chúng về”.

 

Và cũng là sư phụ của Hồ Chí Minh cũng như Lê Duẩn sau này không quên nói thêm: "Bọn này gồm những tên đầu đường xó chợ, đói khát rách rưới, Vô sản lưu manh rất nguy hiểm, chúng là kẻ thù số một của chuyên chính vô sản v́ dễ bị bọn phản động mua chuộc, chúng cần bị giam giữ, loại trừ”(Trích cuốn “Lê Nin tuyển tập và Bản tuyên ngôn đảng cộng sản” có nói về Vô sản lưu manh.).

 

Qua đây chúng ta có thể thấy, việc cộng sản Việt Nam học tập tư tưởng của Lê Nin nhằm trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng ḥa cũng là điều hết sức thường t́nh đối với bản chất của cộng sản.

 

Thứ năm, trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xă hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp (giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau thương?”). Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng sản và các đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam như là một sự đối nghịch đỉnh điểm về ư thức hệ. Trong trang 202 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội dung trích như sau: “Sau ngày 30/4/1975, tư tưởng của Mác, Lê Nin đă hoàn toàn làm chủ cả Việt Nam. Hàng triệu người theo chế độ cũ do người Mỹ giúp đỡ đă phải vào tù theo lệnh cải tạo của nhà nước Việt Nam”. 

 

Cuốn sách này cho thấy người cộng sản Pháp đă phải công nhận có hàng triệu người quân dân cán chính Việt Nam cộng ḥa bị cộng sản đẩy vào tù để phục vụ cho mục đích trả thù những ai không theo cộng sản độc tài.

 

II. Trả thù man rợ:

 

 

Từ sau năm 1975 đến nay, nhà nước cộng sản Việt Nam, đă thi hành chính sách bắt những người là quân dân cán chính đi cải tại các trại tập trung. Thực chất là đi tù. Khi ra khỏi trại thành kẻ tứ cố vô thân. Rồi chính sách cải tạo công thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng phải vượt biên... Rồi trấn áp, bắt bớ người vượt biên. Một số địa phương ven biển c̣n lợi dụng “bắt vượt biên” để trấn vàng, trấn của… Những thương phế binh VNCH th́ bị đẩy ra lề đường.

 

Để nói lên thực tế này, ngay một tờ báo cộng sản đă phải thừa nhận sự thật này . Xin trích dẫn đến bạn đọc đoạn viết trên Tuần Vietnamnet: "Anh tên Ngô Công Ṿ, quê xă Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế, đi lính cho chế độ Sài G̣n năm 1970… So với nhiều anh em lính chế độ cũ, tôi c̣n may mắn hơn nhiều. Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em thương binh phía Bắc c̣n có chế độ, chứ chúng tôi chẳng có ǵ, làm việc quần quật mà chẳng đủ nuôi vợ con. Công việc của gia đ́nh anh Ṿ chủ yếu làm ruộng, và ai thuê ǵ làm nấy. Công việc khá thường xuyên của anh là lấy đất thải san ủi nền nhà, và cả tháo gỡ những quả bom ḿn c̣n sót lại trong vùng đem bán. Công việc vất vả, mạo hiểm đủ để tùng tiệm cuộc sống”. (Links của bài báo : http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-04-27-hoa-hop-dan-toc-va-su-hoi-sinh-tu-noi-dau).

 

C̣n đối với những người bị giam trong tù th́ ra sao? Xin điểm lại một số chứng cứ để thấy cộng sản đă đối xử với quân dân cán chính Việt Nam cộng ḥa như thế nào.

 

Trên thực tế,quân dân cán chính Việt Nam cộng ḥa được thông báo: "Công chức trung ương từ Chánh sở, địa phương từ trưởng ty, phó quận cho tới Tổng thống; sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở lên; các thành phần đảng phái, nhân viên t́nh báo ra tŕnh diện học tập tại trường Gia Long…, mang theo quần áo, lương thực.. đủ dùng trong một tháng”.

 

Khoảng hơn một năm sau ngày nhập trại, bộ nội vụ bèn gom tù lại, ra Chính sách 12 điểm, tất cả học viên thành tù hết, án phạt ba năm… do Công an quản lư, đối xử hà khắc, bắt lao động cực nhọc, giai đoạn này cho ăn đói, mỗi bữa chỉ có vài củ khoai và một hai bát bo bo… rồi nhiều người bị đẩy ra những trại tù ở miền Bắc như: Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời, Thanh Hóa, Hà Nam Ninh…

 

Những người bị giam ở trong nam th́ c̣n đỡ khổ v́ có gia đ́nh thăm nuôi vả lại miền nam khá hơn miền Bắc, những người bị đưa ra Bắc vô cùng thê thảm, đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, làm việc quá sức.. nhiều người chết bỏ xác miền Bắc hoặc hóa ra thân tàn ma dại. Sĩ quan cấp thiếu úy, những người quá tŕnh nhẹ hoặc có thân nhân là cán bộ bảo lănh phần nhiều được về trong ṿng ba năm, cấp trung úy hoặc ty sở trưởng, những người có liên hệ an ninh t́nh báo thường là được về sau 5 hay 6 năm... Trong thời gian đó, cộng sản hành hạ quân dân cán chính VNCH hết sức tàn tệ:

 

Thứ nhất, sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu v́ đă có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng cộng sản đă nghĩ ra một giải pháp thâm độc và tránh được sự lên án của Quốc tế đó là giam cầm và hành hạ quân dân cán chính VNCH. Quân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa đă được khuyến dụ tŕnh diện để “học tập” ngắn hạn. Gọi là “t́m hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đ́nh, phục vụ đất nước.

 

Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy năo, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại c̣n một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đă kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng ḿnh. 

 

“Rồi mai đây, nếu v́ may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những ǵ đă xẩy ra, đă khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!”, (Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 152.).

 

Người tù bất khuất Tạ Tỵ đă mô tả cảnh đói khát trong nhà tù cộng sản hết sức kinh khủng v́ có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.

 

“Đă hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lănh hai chiếc bánh ḿ luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột”, (Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378- 379.).

 

Thứ hai, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong những người đă chứng kiến cảnh tượng đó. Và ông đă mô tả chân thực cuộc sống của nhà tù cộng sản giành cho quân dân cán chính VNCH. Chật chội, ngột ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đă cạn nước, nhiều khi có chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất…

 

“Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa. Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải ḿnh tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc ǵ bất thường th́ phải chờ lâu tới ba tuần”, (Tầng Đầu Địa Ngục - Linh Mục (LM) Nguyễn Hữu Lễ.).

 

Và cùng đó là cảnh thiếu thốn: “Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để t́m nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn th́ cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học”, (Tầng Đầu Địa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ.).

 

Cùng đó là những hành động bị hành hạ cơ thể:

 

“Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các h́nh thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị “đại ca” ra h́nh phạt tương xứng theo luật giang hồ tù. Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép th́ chỉ cần sử dụng “chưởng” tức là đánh bằng ḥn đá bọc trong cái vớ hoặc “bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặng hơn th́ “lấy cấp pha” tức là móc đôi mắt, hoặc “ xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng th́ đối phương sẽ được “cất” có nghĩa là giết chết”, (Tầng Đầu Địa Ngục - LM Nguyễn hữu Lễ.)

 

Thứ ba, cũng cần nhắc qua cuốn Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh để thấy sự tàn tệ của nhà tù cộng sản đối với quân dân cán chính VNCH như thế nào. H́nh ảnh cánh binh cộng sản bắt phạt tù nhân “ngụy” được mô tả như sau: “Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng “ngụy” vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nh́n nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang 116). 

 

Tác giả Hà Thúc Sinh cũng không quên mô tả t́nh trạng thiếu thuốc men và y tế của cộng sản đối xử với quân dân cán chính VNCH: "Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm v́ bị phù do thiếu chất, cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, tr. 251.).

 

Thứ tư, cũng có rất nhiều tác giả khác đă từng ngồi tù cộng sản bằng mỹ từ “học tập cải tạo” đă viết lên những khốn khổ trong tù cộng sản mà trong khuôn khổ bài này tôi không thể kể xiết. Xin điểm lại một số điểm chính để bạn đọc thấy rơ bản chất tàn bạo của cộng sản.

 

Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khoá 51-53 trường Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại học Luật khoa Sài G̣n (1963), thẩm phán Ṭa Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm Ṭa Án Đặc Biệt (1966-1968), Cố vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975), Sau năm 1975, ông bị đưa đi tù cải tạo (1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa Kỳ từ năm 1990. Ông từng là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa Thịnh Đốn, nguyên Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, nguyên Chủ Tịch Cộng Đồng VN vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông c̣n viết nhiều bài khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng răi có viết: 

 

"Tại trại Thanh Cẩm, chế độ lao động c̣n khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ đươc ăn có 4 chén cơm với vài cọng rau muống luộc th́ sức nào chiụ nổi. Nếu đội nào không đi xe cát th́ phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng vác về cho cán bộ làm nhà. Những người lao động ở trại cưa, trại mộc cũng không sung sướng ǵ hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn, cưa sẻ liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng khoai ngô mới là mệt v́ đất núi bạt ngàn mà nhân công th́ thưa thớt. Ấy là chưa kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương sườn và chốc lở sương vai.Sức người có hạn c̣n nhu cầu của trại th́ mỗi ngày môt tăng thêm. Bên cạnh những cái chết v́ tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây luồng đâm thủng bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện những cái chết v́ đói, v́ thiểu lực. Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, v́ chết đói, đă chật cả một phần đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người cái chết đă trở thành quen thuộc, không gây sợ hăi và cũng không gây súc động. Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát”.

 

(Links: http://ongvove.wordpress.com/2010/05/09/tr%E1%BA%A1i-c%E1%BA%A3i-t%E1%BA%A1o-c%E1%BB%A7a-csvn-sau-nam-1975/).

 

Tác giả Nguyễn Chí Thiệp trong cuốn “trại kiên giam “ nổi tiếng của ḿnh th́ viết: "Tiêu chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi tháng c̣n 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đă đưa cơm vào cổ. Đến bữa ăn phải kềm hăm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể ḅn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, v́ đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó”. (Nguyễn Chí Thiện - Trại Tù Kiên Giam, trang 35). 

 

Hoặc: “Hai chân tôi bị c̣ng chéo để bức cung. C̣ng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái c̣ng h́nh chữ U và thanh sắt xuyên. V́ độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, v́ nằm như vậy thân ḿnh căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị c̣ng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp th́ hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đă sưng húp v́ ban đêm bị lắc c̣ng điểm danh”, (Trại Tù Kiên Giam - Nguyễn Chí Thiện, tr 473).

 

Thứ năm, trên thực tế c̣n rất nhiều bằng chứng từ chính những người bị cộng sản trả thù man rợ. Nhưng c̣n phe cộng sản nói ǵ về điều này? Xin giới thiệu cuốn sách “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đă được giải mật năm 2008 (Đă giới thiệu ở “Những sự thật cần phải biết” phần 5) cho biết tại trang 75 như sau: "Những h́nh phạt của đảng cộng sản Việt Nam giành cho tù nhân chế độ Sài G̣n đă cho thấy những người anh em của chúng ta đă không quên phương pháp mà Xtalin áp dụng...”.

 

Cuốn sách này c̣n nói thêm tại trang 82: "Trong một điều kiện khó khăn và kỷ luật hà khắc, chính quyền mới tại nước Việt Nam thống nhất đă thanh lọc rất tốt tư tưởng của những người đi theo Mỹ…”.

 

Như vậy, ở đây ta có thể thấy, cuốn sách đă chỉ rơ cộng sản Việt Nam học tập phương pháp tàn bạo của kẻ giết người hàng loạt đó Xtalin. Và cuốn sách nhắc đến cum từ “Kỷ luật hà khắc” cho thấy bản chất bạo tàn của cộng sản trong đó có cộng sản Việt Nam áp dụng đối với quân dân cán chính VNCH.

 

III. Lê Duẩn là đầu xỏ :

 

Việc trả thù quân dân cán chính VNCH do chủ trương của đảng cộng sản gây ra. Những người trực tiếp thực hiện đó là Vơ Văn Kiệt, Trần Văn Trà, Cao Đăng Chiếm… Nhưng chủ trương và phương án này chính là do Lê Duẩn cầm đầu. 

 

Thứ nhất, Lê Duẩn chính là một người tuy thích thân Liên Xô hơn Tầu nhưng Duẩn cũng học tập chính sách của Hồ Chí Minh trong cải cách ruộng đất. Và chính đảng cộng sản Việt Nam đă thừa nhận điều này: "Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn là “người học tṛ xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lănh đạo lỗi lạc của Đảng, người cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xă hội…” (Trích: Thông cáo đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 11/7/1986).

 

Và tại thời điểm sau năm 1975, Duẩn với cương vị đứng đầu của nhà nước cũng như đảng cộng sản (Lúc đó có tên là đảng lao động) chính là kẻ đă chỉ đạo và quyết định việc đối xử tàn tệ với quân dân cán chính VNCH.Là kẻ đứng đầu đảng và nhà nước, đương nhiên Duẩn biết điều này và không thể đổ lỗi cho bất kỳ ai: "Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng ḥa sụp đổ, nước Việt Nam thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư thứ Nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đă trực tiếp vào miền Nam nắm t́nh h́nh, gồm cả t́nh h́nh kinh tế.”

(Trích Wiki : http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_Vi%E1%BB%87t_Nam,_1976-1986).

 

Và: "Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại và Ban Chấp hành Trung ương vào Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.Tại Đại hội lần thứ IV Đảng (năm 1976) và lần thứ V của Đảng (năm 1982), đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng".(Trích bài phát biểu của Nông Đức Mạnh: Báo Điện tử đảng cộng sản Việt Nam 6/4/2007 )

 

Thứ hai, trong cuốn “Lê Duẩn, Nội dung cơ bản của cách mạng xă hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, xuất bản lần 1 tại trang 482 có viết: "Sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam được tích luỹ qua gần nửa thế kỷ đấu tranh dưới sự lănh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, kết tinh cả truyền thống chiến đấu và tài thao lược của tổ tiên ta. Bằng ư chí của chúng ta, những kẻ một thời lầm đường lạc lối theo Mỹ - Ngụy đă được lao động cải tạo để trở thành những công dân có ích cho xă hội mới..”.

 

Bỏ qua những từ ngữ huyênh hoang quen thuộc của cộng sản để tự lăng xê chính ḿnh. Bỏ qua những mỹ từ “Cải tạo, lao động” th́ chúng ta thấy Lê Duẩn đă rất tâm đắc với chủ trương của ḿnh trong việc hành hạ những người là quân dân cán chính VNCH.

 

Thứ ba, cũng vẫn cuốn sách: “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đă giới thiệu ở phần trên cũng viết tại trang 83: "Đồng Chí Tổng bí thư đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban chấp hành trung ương đảng đă tiến hành ổn định nhanh chóng t́nh h́nh sau ngày 30/4/1975. Chính sách kỷ luật hà khắc mà nhà nước áp đặt cho những người lính chế độ Sài G̣n đă được chính đồng chí Tổng bí Thư Lê Duẩn đề ra trong một cuộc họp của bộ chính trị…”.

 

Qua đây có thể thấy, đảng cộng sản mà đứng đầu là Lê Duẩn đă vạch ra kế hoạch “hà khắc” đối với quân dân cán chính Việt Nam cộng ḥa. Những hành động đầy tội ác mà tôi đă nêu ra ở phần hai chính là do Lê Duẩn – một đồ tể tay chân của Hồ Chí Minh gây ra.

 

Thứ tư, ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev kư bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị”, theo đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Điều 6 của hiệp ước này nói rơ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đă hết ḷng viện trợ cho Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Đà Nẵng làm đầu cầu quân sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng Thái B́nh Dương. Trong cuộc găp với Brezhnev, ngoài báo cáo t́nh hính quan hệ với Trung cộng, CamPuchia th́ Lê Duẩn đă báo cáo: “Cơ bản t́nh h́nh trong nước chúng tôi đă ổn định do tôi và các đồng chí trong bộ chính trị không để cho ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng mô h́nh nhà tù như thời đồng chí Xtalin. Chúng tôi chỉ lo lắng là Campuchia đang leo thang khủng bố…”( Trích: "Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên Xô trang 422”). 

 

Vậy không ai khác mà chính Lê Duẩn cùng cộng sản Việt Nam đă đẩy quân dân cán chính VNCH vào lao tù khắc nghiệt.

 

IV. Kết Luận :

 

Qua những hành động trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng ḥa của cộng sản nói chung và Lê Duẩn nói riêng cho thấy bản chất của cộng sản là không thay đổi qua các thê hệ từ sau Hồ Chí Minh. Tội ác đó vi phạm công ước về tù binh chiến tranh cũng như luật nhân đạo. Sau nhiều chục năm bị bưng bít bởi chế độ cộng sản toàn trị, đă đến lúc chúng ta cần cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ thấy được bản chất tàn bạo của cộng sản.

 

Trong quá tŕnh phát triển của lịch sử dân tộc, chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại rơi vào thảm cảnh như ngày hôm nay do bàn tay độc ác của cộng sản. Chúng ta cần phải đoàn kết lại để lên án và lật đổ chế độ bán nước hại dân cộng sản Việt Nam. Xin trả lại sự thật lịch sử và danh dự cho những người quân dân cán chính VNCH để tôn vinh họ - Những người anh hùng không chịu khuất phục lao tù cộng sản.

 

6/6/2013

 

Đặng Chí Hùng

danlambaovn.blogspot.com

 

Những sự thật cần phải biết - Mất!

 

 

Quá khứ đă qua, giờ là lúc nh́n lại quá khứ bằng lăng kính trung thực nhất để trả lại cho lịch sử những ǵ là của lịch sử. Từ ngày 30/4/1975, cái mất đă mất. Lúc này là lúc chúng ta đứng lên từ quá khứ đổ nát của dân tộc. 

 

Điều duy nhất an ủi chúng ta đó là chính nhờ cái mất đó mà chúng ta có cái được: Ít nhất là những người miền Bắc như chúng tôi đă được giải phóng bởi sự hi sinh của VNCH để chúng tôi không phải sống như dân Bắc Hàn ngày này. Và cũng nhờ cái mất đó mà người dân ngày nay nh́n nhận rơ cộng sản hơn. Để ai c̣n ảo tưởng về cộng sản nhận ra họ sai lầm...

*

Tôi băn khoăn măi không biết đặt tựa đề của bài viết số 5 này. Rất may mắn là tôi đă t́m được nhờ âm nhạc. Cảm ơn nhạc sỹ Lam Phương đă cho tôi và đồng bào tôi nghe bài hát Mất để tôi có thể lấy nó làm tựa đề cho bài viết này. Xin mạn phép tác giả Lam Phương được sử dụng ngay tựa đề của bài hát với câu hát làm tôi xúc động cho đến giờ phút viết những ḍng này “Em có biết ngày 30 mất nước, ngày chia ly ngày của tù đầy...” 

 

Vâng! Tôi biết rằng tác giả Lam Phương đă viết bài hát này cho những người dân Việt Nam cộng ḥa (VNCH) ngày 30 là ngày mất nước, ngày chia ly, tù đày của hàng triệu gia đ́nh. Tuy nhiên trên quan điểm của ḿnh tôi cho rằng ngày 30 là ngày đánh dấu cho cái Mất của cả Việt Nam chứ không riêng VNCH, đó là: Mất tự do, mất dân tộc và mất cả tương lai

 

Để đi vào bài này tôi xin khẳng định lại chính Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (VNDCCH) là những kẻ thua cuộc chứ không phải “bên thắng cuộc” như tác giả Huy Đức viết, bởi v́ bắt đầu kể từ ngày có “bên thắng cuộc” th́ dân tộc Việt Nam: Mất

 

Giải phóng cho ai? 

 

Thưa bạn đọc! Trong những phần của loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” “Những sự thật cần phải biết” đă đăng, tôi đă chứng minh được những luận điểm sau đây: 

 

Việt Nam Cộng ḥa không phải là “ngụy” mà là thể chế tự do, dân chủ, biết lo cho đời sống nhân dân dẫu rằng c̣n nhiều khiếm khuyết cần thời gian sửa đổi. 

 

Chính họ là nạn nhân của chính sách “ngậm máu phun người “ của đảng cộng sản Việt Nam. Những người lính VNCH đă ngă xuống v́ họ ngă cho chính nghĩa và tự do của nhân dân. Chính VNDCCH là ngụy khi đánh thuê cho Liên Xô, Trung cộng (lời ông cựu tổng bí thư Lê Duẩn). 

 

VNCH đă bị chính sách khủng bố của đảng cộng sản núp dưới danh nghĩa “nổi dậy” để khủng bố nhân dân, phá hoại cuộc sống yên b́nh của VNCH. 

 

Thông qua mỹ từ “giải phóng”, đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ đă tiến hành “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, cưỡng chiếm một nước có chủ quyền hợp pháp nhằm đạt mục đích quyền lực, cho thế giới cộng sản và cho kẻ chủ mưu thôn tính Việt Nam: Trung cộng. 

 

Như vậy th́ sự thật về giải phóng đă rơ ràng, không phải là giải phóng cho nhân dân một nước có nền kinh tế, văn hóa, đời sống chính trị hơn hẳn nước khác. Giải phóng ở đây thực chất là giải phóng cho chính những người dân VNDCCH để họ thấy được bản chất láo lừa của cộng sản cũng như cho đất nước Việt Nam không phải như Bắc Hàn. Để minh chứng cho điều này tôi xin tŕnh bày những luận điểm sau đây: 

 

Thứ nhất, tại văn kiện đại hội đảng lần thứ 3 năm 1993 của đảng cộng sản Việt Nam, trang 49 có viết “Nhờ có được vũ khí và cơ sở vật chất của chế độ Sài G̣n để lại mà chúng ta có thể nói là có sự vượt bậc tiến bộ về vũ khí cũng như giải quyết đời sống nhân dân bớt khó khắn sau nhiều năm chiến tranh. Cũng v́ điều này mà bọn phản động lưu vong ở hải ngoại tuyên truyền chúng ta thôn tính Lào và Campuchia, chúng ví quân đội chúng ta như kẻ khổng lồ đi liên minh với 2 kẻ tư hon không nhằm mục đích thôn tính Lào và Campuchia…” 

 

Như vậy qua đoạn trích trên ta thấy ǵ? đó là đảng cộng sản đă thừa nhận với nhau rằng “nhờ” có tài nguyên, vũ khí và kinh tế VNCH th́ nước Việt Nam của các ông đỉnh cao trí tuệ mới “bớt khó khăn”. Th́ ra là giải phóng ngược kiểu này vậy sao? Ai giải phóng cho ai hỡi các vị lăo thành cách mạng? 

 

Thứ hai, khi tiến hành “giải phóng miền Nam”, đảng cộng sản Việt Nam không chỉ bị chi phối bởi Liên Xô mà c̣n chịu nhiều tác động từ đảng cộng sản Trung Quốc. 

 

Chính trong cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” của Nhà xuất bản Sự Thật công bố 14/10/1979, phụ trách bản thảo đưa in là Phạm Xuyên và Đ́nh Lai có đoạn: “Tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore... Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. 

 

Thông tin này đă được chính đảng cộng sản thừa nhận trên website của ḿnh:

http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=9915.0

 

Vậy sự thật ở đây là VNDCCH giải phóng cho chính họ và Trung cộng đang khát tài nguyên hay cho nhân dân? Nhân dân Việt Nam được ǵ từ cuộc chiến tranh đó? Không! Hoàn toàn là không được ǵ. 

 

Cũng cuốn sách này trang 53 c̣n có đoạn cho thấy dă tâm của cộng sản Việt Nam tiếp tay cho Trung cộng. Tại trang này có đăng nguyên văn nội dung lănh đạo đảng cộng sản Việt Nam trả lời ông Đặng Tiểu B́nh hồi năm 1966, như sau: “Sự nhiệt t́nh của một nước XHCN, với một nước XHCN khác là xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm là có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ th́ chúng tôi có thể đỡ hy sinh 2-3 triệu người... Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản”. 

 

Ở trang 73 của tác phẩm này, những người cộng sản Việt Nam đă cay đắng thú nhận: “Những người cầm quyền Trung Quốc, xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ có giúp Việt Nam khi nhân dân Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng cũng xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ không muốn Việt Nam thắng Mỹ và trở nên mạnh, mà chỉ muốn Việt Nam yếu, lệ thuộc Trung Quốc... Họ lợi dụng xương máu của nhân dân Việt Nam để buôn bán với Mỹ... Họ muốn chia rẽ Việt Nam với Liên Xô và các nước XHCN khác”. 

 

Thứ ba, một tài liệu được lưu trữ ở Trung tâm Wilson - Hoa Kỳ cho thấy, trong cuộc họp với Mao Trạch Đông hồi năm 1970, ông Lê Duẩn đă cho ông Mao Trạch Đông biết, Việt Nam đang trường kỳ kháng chiến chống Mỹ là v́ Trung Quốc. Ông Lê Duẩn đă nói, nguyên văn như sau: “Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là v́ chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch... Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là v́ Mao Chủ tịch đă nói rằng 700 triệu người Trung Quốc đang ủng hộ nhân dân Việt Nam một cách vững chắc”. 

 

Như vậy th́ giải phóng miền Nam cho ai? Cho Việt Nam hay cho Trung cộng? Bạn đọc hẳn đă t́m ra câu trả lời. 

 

Thứ tư, trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn (Viện văn học Trung quốc), đó là cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn ở trang 154 nói về quan hệ với Việt Nam. Đoạn đó tạm dịch như sau:

 

“Việt Nam sẽ chỉ yếu đi nếu họ cứ tiếp tục chiến tranh và bất ổn liên miên. Trung Hoa tin rằng Hồ Chủ tịch biết điều này chỉ có lợi cho chúng ta. Nhưng Mao chủ tịch cũng tin tưởng Hồ Chủ Tịch sẽ làm đúng nghĩa vụ của ḿnh.” 

 

Ở đây tác giả Hà Cẩn khẳng định ông Hồ và ông Mao đều hiểu rơ về nhau. Nhưng ông Hồ được ông Mao tin tưởng “sẽ làm đúng nghĩa vụ”. Nghĩa vụ đó là ǵ? Đó chính là việc thực hiện âm mưu làm suy yếu nội lực Việt Nam. Rơ ràng ông Hồ đă được ông Mao giao cho nhiệm vụ cần phải thực hiện để làm suy yếu Việt Nam và ông Hồ do tham quyền lực (nếu thắng) và cũng để thực hiện nhiệm vụ của ḿnh đă gây cho Việt Nam biết bao đau thương trong chiến tranh Nam Bắc. (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ phần 10”). Vậy “giải phóng” cũng là một trong nhiệm vụ mà ông Hồ và đảng cộng sản thực hiện cho quyền lợi của ḿnh và Trung cộng mà thôi. 

 

Thứ năm, cuốn sách “MAO: The Unknown Story” - Sách được phát hành năm 2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và Random House của tác giả Jung Chang và Jon Halliday trang 470 viết: “Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đă có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo t́nh huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam, ngay cả có thể xâm chiếm miền Bắc giáp giới với Trung quốc.” 

 

Qua đây ta có thể thấy ǵ? đó là Mao và Trung cộng đâu phải sai Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam “giải phóng” cho nhân dân Miền Nam Việt Nam mà chỉ là cuộc chơi của Trung cộng với Mỹ và nhân dân Việt Nam là con tốt thí thông qua con rối: đảng cộng sản Việt Nam. 

 

Thứ 6, qua phần 2 của “Những sự thật không thể chối bỏ” và phần 2 của “Những sự thật cần phải biết” tôi đă chứng minh VNCH đâu cần ai giải phóng cho ḿnh? Chẳng lẽ giải phóng ngược? Sự thật là qua những câu chuyện mà ai cũng thấy về sự chênh lệch văn minh sau ngày 30 tháng 4 đă cho thấy những ǵ tôi nói là chính xác. Dẫn chứng này chỉ xin nhắc lại câu của bà Dương Thu Hương - một người đi “giải phóng” người khác: “30 tháng 4 năm 75, nền văn minh đă thua chế độ man rợ”. Xin nói rơ từ “thua” này tôi đă giải thích rơ ở bài 1 “Những sự thật cần phải biết” đó là -  chính VNDCCH đă được “giải phóng” bởi VNCH. 

 

Thứ bảy, cuốn sách “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đă được giải mật năm 2008 cho biết tại trang 69 “Chúng ta đă thắng Mỹ nhưng người dân miền Nam không chào đón những người anh miền Bắc của chúng ta trên chính quê hương miền Nam của họ...” Th́ ra nhân dân miền Nam sau cái ngày “giải phóng” ấy đâu có chào đón người giải phóng cho họ. Chính bởi nhân dân VNCH không cần ai giải phóng cho ḿnh cả. 

 

Thứ 8, cho đến này đảng cộng sản chưa chịu thừa nhận họ thất bại hoàn toàn trong công cuộc “xây dựng Xă hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên như lời Ts. Cù Huy Hà Vũ đă phát biểu với VOA rằng: “Như chúng ta đă thấy, chủ nghĩa cộng sản dưới màu sắc chủ nghĩa xă hội chưa bao giờ là một hiện thực ở Việt Nam bởi cho đến ngày hôm nay hệ tư tưởng ấy vẫn chỉ là “định hướng” như chính ban lănh đạo cộng sản Việt Nam thừa nhận. Nói cách khác, tính ưu việt hay hơn hẳn của chủ nghĩa xă hội so với chủ nghĩa tư bản mà Hoa Kỳ đại diện chưa bao giờ được chứng minh ở Việt Nam nên sẽ là quàng xiên khi nói rằng bên chiến thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam là hệ tư tưởng cộng sản. Sự sụp đổ ngoạn mục của Liên Xô và phe xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước chỉ có thể xác nhận quan điểm này của tôi.” th́ đảng cộng sản chính là những kẻ thua cuộc, những kê được VNCH giải phóng.

(http://m.voatiengviet.com/a/862106.html)

 

Mất! 

 

Thực tế cho đến nay th́ chúng ta đều biết đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh chỉ là con rối trong tay cộng sản quốc tế và đặc biệt là tay sai cho Trung cộng giày xéo đất nước. Chính v́ thế chúng ta - toàn thể Việt Nam chứ không riêng ǵ VNCH đă mất, mất rất nhiều thứ kể từ ngày 30/4/1975 đó. Vậy chúng ta mất ǵ? 

 

Thứ nhất, chúng ta mất biển đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) mà điển h́nh là các hành động vây bắt tàu cá của ngư dân Việt Nam. 

 

Thứ hai, chúng ta đang mất dần các vị trí chiến lược như Tây Nguyên và trong quá khứ đă mất cho Trung cộng: Ải Nam quan, Thác Bản Giốc, băi đá Tục Lăm. 

 

Thứ ba, rồi chúng ta sẽ mất nước không phải bắt đầu từ hiệp ước Thành Đô mà chính xác từ năm 1953 mà ngày 30/4 là cái mốc thể hiện toàn nước Việt Nam dần về tay Trung cộng (luận điểm này tôi sẽ công bố ở một bài gần đây khi đầy đủ tài liệu). 

 

Thứ tư, chúng ta mất tự do: biểu t́nh của dân oan mất đất bị đàn áp, đàn áp người yêu nước (nhạc sỹ Việt Khang, blogger Điếu Cày... là những ví dụ điển h́nh) 

 

Thứ năm, chúng ta đang bị đảng cộng sản lừa mị bởi chiêu tṛ “phát triển kinh tế” bằng những đồng vốn đi vay để làm giàu túi quan tham. 

 

Thứ sáu, chúng ta mất niềm tin, dân khí sau nhiều năm bị cộng sản tiến hành chính sách ngu dân.

...

C̣n rất, rất nhiều thứ mất mà chúng ta có thể lấy ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm cái mốc chỉ dấu. Đúng như nhạc sỹ Lam Phương đă viết “Ngày của chia ly ngày của tù đày”. Những quân dân cán chính VNCH đă là những người mất trước hết v́ họ là những nạn nhân của cái gọi là giải phóng với vạn người chết trong lao tù và làm mồi cho những con sóng dữ biển Đông. 

 

Sau đó là cũng kể từ ngày đó cả nước Việt Nam mất, mất dần ṃn, mất tất cả vào tay cộng sản khát máu và Trung cộng bá quyền. 

 

Ba mươi là ngày chia ly 

Là ngày tang tóc hai miền Việt Nam 

Ai làm cho mẹ lầm than? 

Là loài cộng phỉ, là bầy vong nô 

Tại v́ nô lệ Trung Xô 

Phơi thân người Việt, hoang tàn nước non 

Sau này muôn lớp cháu con 

Hờn căm muôn thuở, nước nào rửa đây? 

Mong rằng sông núi cỏ cây 

Hồn thiêng dân tộc phơi bày trắng đen… 

(ĐCH) 

 

Kết luận: 

 

Quá khứ đă qua, giờ là lúc nh́n lại quá khứ bằng lăng kính trung thực nhất để trả lại cho lịch sử những ǵ là của lịch sử. Từ ngày 30/4/1975, cái mất đă mất. Lúc này là lúc chúng ta đứng lên từ quá khứ đổ nát của dân tộc. 

 

Điều duy nhất an ủi chúng ta đó là chính nhờ cái mất đó mà chúng ta có cái được: Ít nhất là những người miền Bắc như chúng tôi đă được giải phóng bởi sự hi sinh của VNCH để chúng tôi không phải sống như dân Bắc Hàn ngày này. Và cũng nhờ cái mất đó mà người dân ngày nay nh́n nhận rơ cộng sản hơn. Để ai c̣n ảo tưởng về cộng sản nhận ra họ sai lầm. Người Mỹ đă cho ta thấy muốn thắng cộng sản phải cho cộng sản tạm thời thắng. 

 

Tuy vậy người mà chúng ta phải cảm ơn là những người lính VNCH, những con dân VNCH v́ chính họ đă hi sinh, đă mất cho những cái được ngày hôm nay và tương lai. Không có họ th́ Việt Nam cũng chỉ là Bắc Hàn không hơn không kém. Và họ xứng đáng với biểu tượng đă “phải thua” để cho toàn dân tộc Việt Nam “sẽ thắng” trong cuộc chiến chống cộng sản sau này. 

 

Ôi! 30/4 - Ngày của triệu người buồn, ngày mà đất nước Việt Nam Mất quá nhiều. 

 

25/04/2013 

 

Đặng Chí Hùng 

danlambaovn.blogspot.com