Saturday, November 02, 2013 trang chính || lưu trữ || liên lạc
Tang lễ Vơ Nguyên Giáp, một trường hợp nghiên cứu về tẩy năo
Việt Nam có hai ông Vơ Nguyên Giáp. Một ông Vơ Nguyên Giáp đă chết từ năm 1984 và một ông Vơ Nguyên Giáp khác vừa mới qua đời. Hai ông Vơ Nguyên Giáp về thịt xương chỉ là một ông nhưng trong quan điểm của lănh đạo CS lại là hai. Khi Vơ Nguyên Giáp c̣n sống đảng xem như đă chết nhưng khi Vơ Nguyên Giáp tắt thở đảng lại quyết định ông ta phải sống như một “anh hùng dân tộc”.
Ngày ông Giáp qua đời, các trang mạng “lề dân”, các hăng tin quốc tế trong đó có BBC loan tin sớm nhất. Hai mươi bốn giờ đầu tiên, tờ Nhân Dân và cả Thông Tấn Xă Việt Nam, hai cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN không đưa tin ông Giáp từ trần. Lư do, Bộ Chính trị cần phải họp để quyết định có nên cho phép ông Giáp chết chưa, chết như thế nào, chết ngày nào và an táng ra sao.
Hơn một ngày sau, đảng quyết định Vơ Nguyên Giáp “nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII…đă từ trần hồi 18 giờ 9 phút, ngày 4-10-2013 (tức ngày 30 tháng 8 năm Quư Tỵ), tại Bệnh viện T.Ư Quân đội 108; hưởng thọ 103 tuổi.”
Thông cáo chỉ dài một trang nhưng cố t́nh viết sót. Thông thường trong cáo phó hay tiểu sử, chức vụ cuối cùng là chức vụ chính thức và các chức vụ khác trước đó được viết sau hay bỏ sót cũng không sao. Chức vụ về mặt nhà nước cuối cùng trước khi nghỉ hưu của ông Giáp không phải là Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mà là Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch chiếu theo quyết định bổ nhiệm số 58/HĐBT do Phạm Văn Đồng kư ngày 18 tháng 4 năm 1984. Khi đó ông đă rời chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng đến bốn năm. Một chức vụ cả thế giới đều biết mà đảng c̣n giấu được nói chi những chuyện khác. Việc xóa đi chức vụ lo phần sinh đẻ của ông Giáp là một cách thừa nhận chức vụ đó chẳng qua là vết chàm nhục nhă do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đóng lên trán của ông Giáp.
Dù sao ông Vơ Nguyên Giáp là một người may mắn. Khi c̣n sống ông có nằm mơ cũng không nghĩ ḿnh được ca ngợi, vinh danh và thương tiếc nhiều đến thế. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những lănh tụ CS cùng thế hệ không ai được ca ngợi như ông. Việc chọn được an táng ở một nơi vắng vẻ thay v́ nghĩa trang Mai Dịch cho thấy tâm trạng của Vơ Nguyên Giáp là tâm trạng của kẻ thua cuộc và từ lâu đă bị bỏ rơi. Ngoài ra, chắc ông cũng cảm thấy khó chịu khi nghĩ đến việc phải nằm cạnh Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng, Trường Chinh. Nếu Vơ Nguyên Giáp chết vào đầu thập niên 1980 khi Lê Duẩn c̣n sống hay khi Đỗ Mười làm tổng bí thư có lẽ cũng không hơn ǵ những sĩ quan cấp tướng khác như Lê Trọng Tấn (1914-1986), Hoàng Văn Thái (1915-1986). Trường Chinh so với Vơ Nguyên Giáp c̣n cao hơn cả đảng tịch lẫn chức vụ nhưng khi chết cũng không được tổ chức đ́nh đám hơn.
Dưới chế độ CS, khóc thương, nguyền rủa, ca ngợi hay phê b́nh kiểm thảo cũng đều có chủ trương, có chính sách chứ không phải là một t́nh cảm tự nhiên. Tận diệt kẻ thù c̣n sống nhưng lợi dụng mọi ảnh hưởng có lợi của kẻ thù đă chết cũng là một trong những đặc điểm trong bộ máy cai trị CS khắp thế giới. Stalin khóc Sergey Kirov, Fidel Castro khóc Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu B́nh khóc Mao Trạch Đông. T́nh đồng chí trong giới lănh đạo đảng CS chỉ có trong các điếu văn.
Cùng phát xuất một nguồn nên CSVN cũng chẳng tốt hơn Liên Xô, Trung Cộng. Ca tụng kẻ chết không gây tác hại ǵ. Xác chết không nghe được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực, sống trong chiếc bóng những người đă chết. Họ đối xử nhau c̣n tệ hơn giới giang hồ đâm thuê chém mướn. Danh vọng và quyền lực đă làm mờ nhân tính trong con người họ. Lê Duẩn liên minh với Lê Đức Thọ để loại Vơ Nguyên Giáp, rồi Lê Đức Thọ tính hại Lê Duẩn ngay cả khi y đang nằm trên giường bịnh v́ không chịu viết di chúc truyền chức tổng bí thư. Đoàn Duy Thành kể trong hồi kư Làm người là khó, khi Lê Duẩn sắp chết con cái y c̣n lo cánh Lê Đức Thọ sẽ giết chết hết cả gia đ́nh.
Nhưng tại sao lănh đạo CSVN lại muốn Vơ Nguyên Giáp tiếp tục sống như một “anh hùng dân tộc” trong giai đoạn này?
Lănh đạo CS cố dựng lại tấm b́nh phong chính danh lịch sử. Như người viết đă tŕnh bày trong bài Cách mạng dân tộc dân chủ trong t́nh h́nh mới trên talawas trước đây, một câu hỏi thường được đặt ra, tại sao các nước Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ mà Cộng Sản tại các nước Á châu như Trung Quốc, Việt Nam không sụp đổ. Mặc dầu mỗi nhà phân tích chính trị có thể giải thích nguyên nhân một cách khác nhau tùy theo góc độ họ đứng và mục đích nghiên cứu, đa số đă đồng ư rằng các nước Cộng Sản tại Á Châu có một điểm mà các nước Cộng Sản Đông Âu không có, đó là sự liên hệ lịch sử giữa ḍng sống của đảng Cộng Sản và ḍng sống của đất nước nơi đảng ra đời. Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập 1921 trong cuộc kháng chiến chống Nhật, đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 1930 trong cuộc kháng chiến Pháp. Lănh đạo Trung Cộng và CSVN đă vận dụng tối đa mối liên hệ này.
Tại Trung Quốc, Đặng Tiểu B́nh và các lănh đạo CS tại Trung Quốc biết rơ hơn ai hết, cây cột duy nhất có thểgiữ chế độ CS khỏi sụp đổ là tính chính danh lănh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter Hays Gries, một chuyên gia về Trung Cộng, viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa theo thủ tục để bầu ra các chính phủ theo các nguyên tắc dân chủ, và đối phó với sự sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để cai trị đất nước.”
Lănh đạo CSVN sao chép toàn bộ lư luận của Đảng Cộng Sản Trung Quốc kể cả việc lợi dụng mối liên hệ lịch sử ngắn ngủi giữa đảng CS và dân tộc để giải thích tính chính danh của đảng trong tương lai lâu dài của dân tộc. Đừng quên, trong thời điểm chống thực dân Pháp, không phải chỉ có đảng CS mà rất nhiều đảng, nhiều phong trào cách mạng khác ra đời từ nam đến bắc để cùng đánh đuổi thực dân. Tuy nhiên, không có một phong trào nào, một đảng phái nào trong cương lĩnh tự cho rằng v́ họ đánh Pháp nên đảng của họ có đặc quyền lănh đạo cách mạng, đặc quyền lănh đạo đất nước, không chỉ hôm nay và măi măi về sau như đảng CSVN. Đó là lư luận của kẻ cướp nước.
Sau 38 năm cai trị, chưa bao giờ đảng CSVN bị phải đương đầu với nhiều khó khăn như hôm nay. Ngoài sự phân hóa nội bộ và một nền kinh tế suy sụp, những thành phần từng nhiệt t́nh ủng hộ đảng, chấp nhận chiến đấu dưới sự lănh đạo của đảng đang lần lượt ra đi. Nhiều trong số đó đang công khai thách thức quyền cai trị của đảng. Hơn bao giờ hết, đảng cần sự ủng hộ của quần chúng, và muốn vậy, phải hâm nóng lại chiêu bài yêu nước. Vơ Nguyên Giáp là những que củi cần thiết để đốt lên ḷ lửa “chống thực dân và đế quốc” đă nhiều năm nguội lạnh. Giới lănh đạo CS dùng chiếc khăn chính danh lịch sử để bịt mắt nhân dân và đă nhiều lần chứng tỏ thành công. Giáo sư Archie Brown thuộc đại học Oxford, Anh, cho rằng sở dĩ các chế độ CS tại Việt Nam, Trung Quốc c̣n tồn tại v́ khái niệm t́nh cảm dân tộc nhiều giai đoạn đă có lợi cho CS.
Lănh đạo CSVN đánh giá đúng tŕnh độ của các thành phần bị tẩy năo. Nếu so sánh Việt Nam, Trung Cộng và Bắc Hàn, Việt Nam c̣n quá nhiều người bị tẩy năo, mê muội và lạc hậu hơn cả Trung Cộng và Bắc Hàn. Người dân Trung Hoa ít ra đă chứng tỏ cho thế giới thấy khát vọng dân chủ của họ qua biến cố Thiên An Môn với một triệu người vùng dậy chiếm cứ khuôn mặt của thủ đô Bắc Kinh suốt gần một tháng. Chế độ Cộng Sản tại Trung Hoa đang đi trên lưỡi dao cạo, chỉ cần mất thăng bằng, mất kiểm soát sẽ bị đứt chân và rơi xuống vực sâu. Khi dựng bức tượng Nữ Thần Tự Do làm biểu tượng cho cuộc đấu tranh, các lănh đạo của phong trào Thiên An Môn đă chọn dứt khoát một con đường, đó là con đường tự do dân chủ và không có một con đường nào khác.
Bắc Hàn ch́m đắm trong tăm tối, hoàn toàn bị cô lập nhưng từ 1952 đến nay, mỗi năm vẫn có hàng ngàn người dân vượt thoát được khỏi địa ngục Bắc Hàn bằng những cách vô cùng nguy hiểm. Một người Bắc Hàn vượt biên bị bắt, nếu bị bắn ngay tại chỗ, là một may mắn. Không, phần lớn phải trải qua những trận tra tấn vô cùng dă man, bị bỏ đói dần dần cho đến khi thân thể chỉ c̣n máu và mủ. Hầu hết người bị bắt lại hay bị Trung Cộng trao trả về Bắc Hàn đều bị giết. Tuy nhiên, những người dân Bắc Hàn đó đă chứng tỏ khát vọng tự do là một quyền bẩm sinh trong mỗi con người từ khi mới chào đời, không ai ban cho và cũng không cần ai chỉ dạy. Harvard International Review phỏng vấn anh Ji Seong-ho, người đă vượt sáu ngàn dặm qua các nước Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Đài Loan để t́m tự do năm 2006 và được anh cho biết chế độ CS Bắc Hàn đă đánh mất niềm tin trong ḷng dân, và khi tôi c̣n ở đó người dân đă nghĩ đến sự thay đổi. Họ sợ thảo luận nơi công cộng nhưng trong riêng tư họ đă bàn đến. Áp bức vẫn tiếp tục, nhưng sự yêu chuộng cũng như uy tín của chế độ đă giảm nhiều.
Việt Nam th́ khác. Để tồn tại, từ 1981 đến nay, giới lănh đạo CS buộc phải hé cửa và tự diễn biến ḥa b́nh qua các chính sách đổi mới kinh tế. Ánh sáng văn minh nhân loại đă theo những kẽ hở đó lọt vào. So với Bắc Hàn, người Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để nh́n ra thế giới. Lẽ ra, người dân, nhất là thành phần trí thức, có cơ hội học hỏi, so sánh các chế độ chính trị, sở hữu một nhận thức chính trị và chọn lựa một lập trường chính trị phù hợp với xu hướng phát triển thời đại, nếu không công khai chống lại chế độ độc tài ít ra cũng biết tự trọng làm im.
Khi c̣n sống, những lá thư của ông Vơ Nguyên Giáp lên tiếng về chủ trương xây dựng Nhà Quốc Hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu hay ít nhất ba lần về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên cũng bị ném vào sọt rác. Ngoại trừ một số rất nhỏ, không ai binh vực ông. Thế nhưng, khi đảng cho phép tiếc thương, nhiều bồi bút tận dụng cơ hội để lập công, khẳng định sự trung thành và chứng tỏ ḿnh luôn đi sát với lập trường, quan điểm của đảng. Trên mấy trăm tờ báo đảng, bấm vào là đọc một mẫu chuyện về “cuộc đời”, “sự nghiệp” và “chiến công” của Vơ Nguyên Giáp. Đọc những bài thơ, bài văn tâng bốc Vơ Nguyên Giáp mà cảm thấy tội nghiệp cho tiếng Việt. Những cây đinh tuyên truyền tẩy năo lại tiếp tục đóng vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam chẳng khác ǵ thời chiến tranh. Tang lễ của Vơ Nguyên Giáp cho thấy nhiều người vẫn c̣n bị lừa gạt một cách quá dễ dàng và thành phần xu nịnh trong xă hội Việt Nam c̣n quá đông. Th́ ra, dù nhân loại đă bắt đầu thám hiểm những v́ sao xa nhiều triệu dặm, chiếc đồng hồ báo thức tại Việt Nam 60 năm vẫn chưa gơ lên một tiếng nào.
Như đă viết trong bài Bàn về tẩy năo, sau 38 năm, tầng lớp có học thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo không ít người vẫn c̣n nghĩ rằng nói ǵ th́ nói đảng CS trong suốt ḍng lịch sử của đảng đă đồng hành với dân tộc, nói ǵ th́ nói chỉ có đảng CS mới có khả năng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, nói ǵ th́ nói đảng CS là đảng nắm trong tay ngọn cờ chính nghĩa, nói ǵ th́ nói Việt Nam vẫn cần ổn định để phát triển và mọi thay đổi đột biến sẽ dẫn đến hỗn loạn; nói ǵ th́ nói các lănh tụ CS vẫn là những người yêu nước, những anh hùng dân tộc và xứng đáng được kính trọng khi họ sống và tôn thờ, tiếc thương, than khóc khi họ chết. Đảng không từ chối đă phạm nhiều sai lầm trong quá khứ nhưng đó là những sai lầm khách quan. Đảng không từ chối đang có nhiều t́nh trạng tiêu cực xă hội nhưng đó chỉ là hiện tượng không phải bản chất của chế độ. Từ những năm đầu ăn bo bo sau 1975 cho đến gần bốn chục năm, một học sinh cho đến các “tiến sĩ” cũng đều bị tẩy năo bằng những lập luận như vậy qua các lớp chính trị.
Đảng biết rất rơ thành phần “nói ǵ th́ nói” là ai và quá khứ xuất thân của từng người trong số họ. Họ yêu nước không? Có. Họ muốn đất nước Việt Nam giàu mạnh không? Có. Họ muốn xă hội Việt Nam trong sạch không? Có. Họ muốn điều kiện chính trị tại Việt Nam được nới rộng nhưng đảng CS vẫn tiếp tục lănh đạo đất nước không? Cũng có luôn. Nhà tâm lư học Michael Langone mô tả đó t́nh trạng tâm thần của những người đang trôi giữa hai bờ, bờ đúng và bờ sai, bờ thực và bờ ảo, bờ chánh và bờ tà. Họ thoạt trông như có tinh thần cách mạng nhưng trong thực tế là vật cản cho một cuộc cách mạng xă hội toàn diện và đắp đập để giữ cho cơ chế độc tài tồn tại lâu dài hơn.
Những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ đó có bao giờ nửa khuya thức dậy pha một b́nh trà thật đậm, vừa uống và vừa tự hỏi những những nhận thức chính trị của ḿnh từ đâu mà có? Những kiến thức về lịch sử của ḿnh do ai cấy vào? Ông Vơ Nguyên Giáp thực sự là nạn nhân hay cũng chỉ là kẻ sát nhân thất thế như nhiều lănh đạo CS khác? Ông Vơ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc hay là một trong những người đưa đất nước vào ṿng nghèo nàn, độc tài, lạc hậu hôm nay? Nếu ông Vơ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc rồi ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu đồng bào miền Nam từ 1954 đến 1975, chẳng lẽ những nạn nhân vô tội kia không phải là một bộ phận của dân tộc Việt Nam sao? Và cứ thế, hăy đặt ra những câu hỏi ngược với những khẳng định và kết luận mà đảng đă trang bị, không chỉ riêng về ông Vơ Nguyên Giáp mà cả một giai đoạn lịch sử dài từ khi đảng CSVN có mặt. Phải biết hoài nghi, so sánh và đặt vấn đề một cách khách quan và độc lập để thấy những ǵ được gọi là “chân lư” và “sự thật” dưới chế độ CS chỉ là những bùa ngải tuyên truyền.
Giải tẩy năo
Bác sĩ Robert J. Lifton là nhà nghiên cứu tiên phong về tẩy năo dưới chế độ CS. Trong tác phẩm Cải tạo tư tưởng và tâm lư học về chế độ toàn trị: Một nghiên cứu về “Tẩy năo” tại Trung Quốc (Thought Reform and the Psychology of Totalism: A Study of “Brainwashing” in China) ông đă đưa ra 8 đặc điểm về cải tạo tư tưởng của CS: (1) Kiểm soát môi trường (Giới hạn tối đa sự liên lạc giữa nạn nhân và thế giới bên ngoài, giữa nạn nhân và xă hội chung quanh và cả giữa nạn nhân và chính nhận thức cũ của nạn nhân); (2) Vận dụng huyền bí (Vận dụng cá nhân bằng mọi cách và không giới hạn ở một phương tiện nào); (3) Đ̣i hỏi sự thuần khiết tuyệt đối (Một quá tŕnh phấn đấu liên tục để đạt đến tŕnh độ tự giác); (4) Tự thú công khai (Con người trong xă hội CS phải phô bày mọi suy nghĩ, quan tâm và lo âu một cách công khai, không có riêng tư về thể chất cũng như tinh thần); (5) Chủ thuyết là tuyệt đối đúng (Chủ thuyết CS được đảng lư luận như đồng nghĩa với khoa học và phê b́nh chủ thuyết CS chẳng những sai lầm về đạo đức mà c̣n vi phạm các nguyên tắc “khoa học”); (6) Khẩu hiệu chuyên chở ngôn ngữ (Những vấn đề phức tạp, khó hiểu và sâu xa nhất của con người được cô đọng thành những khẩu hiệu có sức cám dỗ cao, dễ giải thích, dễ hiểu và dễ nhớ); (7) Giá trị của chủ thuyết đặt cao hơn giá trị con người (Kinh nghiệm quá khứ của một người sẽ không giá trị ǵ nếu kinh nghiệm đó mâu thuẫn với chủ thuyết, lịch sử của dân tộc được viết lại, sửa đổi hay cắt xén để phù hợp với chủ thuyết); (8) Thành phần cần thiết và không cần thiết tồn tại trong xă hội (Có hai hạng người trong xă hội CS, một hạng thuộc giai cấp ưu việt gồm công nhân, nông dân, buôn bán lẻ có quyền tồn tại và thành phần khác gồm tư sản, địa chủ, phản động không cần phải tồn tại).
Các điểm mà Bác sĩ Robert J. Lifton tŕnh bày về chính sách tẩy năo tại Trung Cộng, đă và đang được áp dụng tại Việt Nam, cho thấy chính sách tẩy năo CS vô cùng thâm độc, tận gốc rễ và có hệ thống tinh vi.
Chính Mikhail Gorbachev cũng gián tiếp thừa nhận ḿnh từng bị tẩy năo. Lần đầu tiên được đi ra nước ngoài vào những năm 1970, xă hội Tây phương đă giúp ông ta sáng mắt. Những chuyến đi trong thập niên 1980, trong tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, đă củng cố quyết tâm thực hiện các chính sách đổi mới sau này. Gorbachev kể lại, một lần, khi tháp tùng phái đoàn đảng CS Liên Xô tham dự tang lễ của lănh đạo CS Ư Enrico Berlinguer, ông ta ngạc nhiên khi thấy hầu hết các chính trị gia thuộc các đảng dân chủ kể cả Tổng thống Ư Alessandro Pertini cũng đến cúi chào tiễn biệt trước quan tài của Enrico Berlinguer. Đảng CS Ư trong thập niên 1980 đóng vai tṛ tích cực trong đời sống chính trị Ư và có hậu thuẫn rộng lớn trong quần chúng. Gorbachev thán phục tính đa nguyên và cách cư xử văn hóa trong chính trị Tây phương. Ông nghĩ điều đó không thể nào xảy ra với chủ thuyết CS mà ông được đào tạo.
Nhiều người Việt Nam tự hào học cao, hiểu rộng, đọc nhiều sách Anh, sách Mỹ, du học tại các trường đại học nước ngoài, nghĩ rằng ḿnh không bị tẩy năo. Không phải. Quan điểm lịch sử và nhận thức chính trị của họ bị tẩy từ trong bào thai cho đến tuổi trưởng thành để chấp nhận những kết luận phản khoa học như là chân lư. Áp dụng ví dụ của Yuri Alexandrovich Bezmenov trong bài trước vào điều kiện Việt Nam, dù có mang những người này ra tận các “trại cải tạo” Suối Máu, Cổng Trời và chỉ họ những nơi CS đă bỏ tù hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức VNCH chưa hẳn họ tin cho đến khi chính họ bị nhốt vào trong các thùng sắt, bỏ đói và chịu rét, lúc đó họ mới tin. Tiến tŕnh giải tẩy năo v́ thế là một tiến tŕnh hết sức khó khăn và chỉ có thể thành công nếu nạn nhân can đảm đối diện với sự thật, thừa nhận t́nh trạng bị tẩy năo và giải tẩy năo liên tục.
Can đảm đối diện với sự thật. Mọi hành tŕnh bắt đầu từ chính con người. Nếu những người bị tẩy năo c̣n đủ khôn ngoan để hiểu rằng những kiến thức ḿnh đang có là kiến thức một chiều, là thuốc độc được nhỏ từng giọt vào nhận thức và thấm dần qua thời gian, từ thuở c̣n thơ cất tiếng đầu đời cho đến trường mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học, trường đoàn, trường đảng, hăy đem những kiến thức đó trả lại cho chủ nhân của chúng. Không nên tự kết án v́ người bị tẩy năo chỉ là nạn nhân chứ không phải là kẻ gây ra tội ác. Hàng ngàn người khóc vật vă trên đường phố trong tang lễ của ông Vơ Nguyên Giáp không quan trọng v́ ngày mai đảng bảo cười họ cũng sẽ cười, nhưng các nhà văn, nhà thơ, nhà báo th́ khác. Họ là những tiếng nói gây ảnh hưởng và được ví như là những phát ngôn nhân của thế hệ và thời đại. Không nên tiếp tục bị nô lệ tri thức. Nô lệ vật chất chỉ thiệt hại bản thân nhưng nô lệ tri thức thiệt hại cho những người chung quanh, người đọc và nhiều thế hệ con cháu sau này. Hăy nhổ mũi tên độc ra khỏi vết thương và tiếp tục cuộc hành tŕnh xây dựng một nhận thức mới, độc lập, khách quan và tự do.
Thừa nhận t́nh trạng bị tẩy năo. Con người thường bất đồng với những điều nghịch lư nhưng khó chống lại những điều rất hiển nhiên và hợp lư. Người bị tẩy năo thường không thừa bị tẩy năo và luôn sống trong t́nh trạng từ chối. Tuyên truyền tẩy năo CS không kê súng vô đầu một người để buộc người đó phải tin nhưng thuyết phục bằng một lư luận rất hợp với nhân tính. Những tù binh Mỹ bị bắt trong chiến tranh Triều Tiên không bị tra tấn về thể xác và không bị kết án giết người. Các cán bộ tuyên truyền Trung Cộng xác định họ là những người tốt, chỉ v́ phải có mặt tại Triều Tiên trong một thời điểm sai để làm một công việc trái với đạo lư con người do chính phủ Mỹ chủ trương. Người tù binh cũng là “nạn nhân” như những người dân Triều Tiên vô tội bị bom đạn Mỹ giết chết. Người tù binh được tiếp đăi tử tế, được cấp các tiêu chuẩn ăn uống cao hơn những tù binh khác. Sau đó, anh ta được có trao cơ hội để giải phóng khỏi niềm tin cũ và xây dựng một niềm tin mới.
Tiến tŕnh giải tẩy năo là một tiến tŕnh liên tục. Tẩy năo dưới chế độ CS nhằm thay đổi tận gốc rễ, diễn ra có hệ thống và tập trung vào mục đích thuần hóa con người. “Trăm năm trồng người” là mục tiêu đầu tiên và tối hậu của đảng CS. Tuyên truyền CS diễn ra như sóng vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt khác. Khác với các tù b́nh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên bị tẩy năo trong một giai đoạn ngắn, phần lớn sau khi khi về lại nhà, thay đổi môi trường giáo dục, thông tin và t́nh cảm, họ nhanh chóng trở lại b́nh thường. Những người sống ngay giữa ḷng chế độ, việc giải tẩy năo khó hơn nhiều. Họ phải chiến đấu liên tục về mặt tư tưởng để chống lại các thông tin tẩy năo bằng mọi h́nh thức và trong mọi lănh vực của đời sống xă hội. Chống lại chính sách tẩy năo là một nỗ lực vô cùng khó khăn, đ̣i hỏi ư chí quyết tâm cao và tinh thần bền bỉ.
Sự thật sẽ thắng
Để trả lời câu hỏi tại sao Liên Xô sụp đổ, người viết tin rằng phần lớn người có kiến thức chính trị căn bản sẽ nghĩ ngay đến vai tṛ của cựu Tổng bí thư đảng CS Liên Xô Mikhail Gorbachev, người đă đă đưa ra hai chính sách quan trọng Perestroika (cải cách kinh tế) và Glasnost (cải cách văn hóa xă hội); một số người khác sẽ nghĩ đến vai tṛ của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, người đă tăng cường chạy đua vũ trang đến mức làm nền kinh tế Liên Xô kiệt quệ; một số có thể nghĩ đến vai tṛ của Đức Giáo Hoàng John Paul II, người với câu nói “Các con đừng sợ hăi” đă là chỗ dựa tinh thần của phong trào Công Nhân Đoàn Kết Ba Lan và phong trào dân chủ tại các nước Đông Âu; một số có thể nghĩ đến cố thủ tướng Anh Margaret Thatcher, người “phụ nữ sắt” như báo chí Liên Xô mô tả và đă được tác giả John O’Sullivan xem như là một trong ba người (Roldnald Reagan và Đức Giáo Hoàng John Paul II) đă góp phần quan trọng vào việc làm sụp đổ phong trào CS châu Âu.
Tất cả những người nêu trên thật sự đă có đóng góp quan trọng vào việc làm tan ră hệ thống CS. Tuy nhiên, họ chỉ là những giọt nước tràn ly và ly nước không thể tràn bằng vài giọt nước. Lư do chính làm tan vỡ các chế độ CS châu Âu phát xuất từ chỗ nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô đă vượt qua được căn bịnh tẩy năo. Các chính sách tuyên truyền tẩy năo từ thời Lenin, Stalin đă không c̣n hiệu quả, không thuyết phục và cũng không làm người dân sợ hăi, không c̣n ai kể cả các lănh đạo đảng tin tưởng vào chủ nghĩa Cộng Sản. Một khi chính sách tuyên truyền không tác dụng, chế độ độc tài sẽ sụp đổ.
Như một định luật của phát triển xă hội, ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh. Khát vọng tự do trong con người chưa bao giờ chết dù giữa mùa đông tuyết giá trong các trại tập trung Siberia hay trên đường phố Budapest ngập máu trong tuần lễ từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 11, 1956. Sau hơn 70 năm đối kháng trong âm thầm nhẫn nhục giữa lừa dối và chân thành, giữa bạo lực trấn áp và khát vọng tự do, giữa độc tài và dân chủ, giữa cổ vơ chiến tranh và yêu chuộng ḥa b́nh, giữa hận thù và t́nh yêu, cuối cùng, sự thật đă thắng tại châu Âu và sẽ thắng ở Việt Nam. George Orwell đă viết “trong xă hội đầy lừa dối, cất lên một tiếng nói thật là một hành động cách mạng”, hơn bao giờ hết, Việt Nam đang cần những con người làm cách mạng bằng cách sống thật và nói thật.
Trần Trung Đạo - October 29, 2013 at 2:07pm
|