Tuesday, April 30, 2013                       trang chính  ||    lưu trữ    ||   liên lạc


Mỉa mai chua xót về ḷng yêu nước

T́nh cờ, tôi đọc được bài phỏng vấn ông Nguyễn Thành Trung được thực hiện bởi hai tác giả Trung Dũng và Minh Nguyễn của báo Sài G̣n Tiếp Thị, sau được dẫn lại trên Dân Làm Báo. Tôi tưởng đă quên cái ngày ấy, lúc đó tôi c̣n nhỏ đi chạy giặc theo ba tôi, chúng tôi đă đến đảo Phú Quốc khi hay tin ông ném bom vào Dinh Độc Lập. Khi ấy tôi đă hét lên rằng quân phản bội, và hàng ngàn tiếng hét lên án hành động của ông. Rất tiếc, ông đă không chứng kiến cảnh người ta lên án ông vào cái ngày ấy. Nhưng tôi th́ không thể nào quên. Và nếu như ngày hôm nay, không có cảnh ngư dân đánh cá trên lănh thổ ḿnh nhưng lại bị quân Trung Quốc bắn và giết một cách vô nhân đạo; nếu không có cảnh các cô gái, trẻ em bị lừa đảo làm gái mại dâm tại Campuchia và Nga, và nếu không có hàng trăm cảnh đau ḷng khác mà một người Việt Nam có t́nh yêu với quê hương không thể làm ngơ... th́ tôi có thể xin lỗi ông khi lên án, dù lúc ấy tôi chưa trưởng thành.
Tôi thấy trường hợp của ông Trung hơi giống trường hợp của ba tôi. Nhưng mỗi người lại có cách suy nghĩ khác nhau về t́nh yêu nước mà ông đă trả lời khi được phỏng vấn. Mỗi lần đi thăm nuôi ba tôi, ông đều nói: "Tụi con phải t́m cách đi vượt biên, dù ông Đỗ Mười có chửi là 'bọn đĩ điếm', là 'phản quốc' hay xấu xa nào đó, th́ tụi con cũng phải đi"

Hiện trạng đất nước hiện nay đă có đáp số rơ ràng. Nguyên nhân th́ ông đă thừa biết, nhưng hậu quả th́ người dân lănh đủ, ngoại trừ gia đ́nh ông.

Tôi không ném bom, nhưng tôi lại chua xót khi thấy đất nước đang biến dạng về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tôi không cần dẫn chứng thêm, bởi v́ sự thật đau thương đă và đang xảy ra hàng ngày trên khắp hang cùng ngơ hẻm của mảnh đất Việt Nam.

Tôi cảm thấy xót xa cho cô bé Nguyễn Phương Uyên bị đánh đập trong tù, c̣n gia đ́nh Đinh Nguyên Kha th́ bị đe dọa. C̣n ông th́ tin tưởng chế độ Việt Nam Cộng Ḥa đối sử tử tế với vợ con ông, trong lúc ông ném bom Dinh Độc Lập. Thật là mỉa mai phải không Đinh Khắc Chung? 

Thật là đau ḷng phải không ông Nguyễn Thành Trung, khi Nguyễn Phương Uyên nói lên ḷng yêu nước chống giặc Trung Quốc xâm lược th́ bị ở tù, rồi tiếp tục bị đánh đập trong trại giam. Ông thấy có công bằng không? 

Theo cách suy nghĩ của tôi, nếu là một người yêu nước đúng nghĩa th́ xin đừng lợi dụng danh từ nay. Phải cảm nhận, thấy hổ thẹn và xấu hổ khi ḿnh làm một việc ǵ dù b́nh thường và nhỏ bé, dù là lời nói, mà việc làm ấy làm tổn thương đến người khác, lương tâm cũng bị nhức nhối như bị kim chích hàng ngày. Ngược lại ông lại cảm thấy hài ḷng và vui vẻ với công việc của ông mà không một ưu tư về việc làm của ông đối với đất nước. Dù nếu không phải v́ ông ném bom vào Dinh Độc Lập mà Cộng Sản có thể chiếm được Miền Nam, bởi miền Nam đă bị mua bán bởi hai cường quốc. Nói chung Miền Nam bị làm con cờ giữa bên Tư Bản và Cộng sản. Đây là điều hiển nhiên. 

Với thông tin hiện tại tràn đầy trên internet, nếu là một người lương thiện cũng nên biết hổ thẹn v́ hành động của ḿnh, sau những chuyện ḿnh làm cho đất nước. Mà người cộng sản làm ǵ c̣n lương tâm để mà hổ thẹn. 

Mấy ông lăo thành cách mạng thích lạm dụng từ yêu nước để làm cứu cánh, để biện minh cho hành động giết đồng bào ruột thịt của không gớm tay dù là vô t́nh hay cố ư th́ làm ǵ có t́nh yêu nước. Bây giờ lại nghe ông gián điệp nằm vùng Nguyễn Thành Trung lập lại, chẳng lẽ bao nhiêu người lính và dân ở miền Nam là không yêu nước. Đây có lẽ ch́a khóa để biện minh cho hành động của ḿnh: 

"Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc ḿnh, cha ông ta đă đắp xây nên bờ cơi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng ǵn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi ḿnh chết cho Hoàng Sa th́ vinh dự hơn!". 

Đọc đoạn này tôi cảm thấy không logic, v́ người cộng sản chỉ biết làm theo lệnh như một con Robot, nhất là một gián điệp như ông. Lư do là ông đă ném bom xuống Dinh Đọc Lập.

Trước hết cho tội có lời ngợi khen ông về cái tính b́nh tĩnh và thông minh, tính toán rất kỷ. Khi ông đă đă có mục đích, biết về nền dân chủ ở miền Nam c̣n rất non trẻ, ông biết rằng vợ con ông được an toàn, dù ông có phá hại đất nước này. Tôi xin xác định điều này ông nói rất chân thực. V́ tôi biết và thấy bên cạnh nhà ngoại tôi, cha họ, chồng họ đi theo cộng sản ra ngoài Bắc, dẫn theo một người con gái, để lại cho bà vợ hai cô con gái, sau đó lén lúc trở về miền Nam lại tặng thêm cho bà vợ một cái bầu. Lúc nhỏ tôi thường chơi với thằng này, nhưng chị em nó vẫn được học hành đàng hoàng, không ai kỳ thị giống như những ǵ chị em tôi trải qua sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam. Mấy người con ông tập kế được đối xử giống như mọi người, nhất là không bị đuổi đi kinh tế mới như chị em tôi để lấy nhà, trong lúc ba tôi bị đi ở tù, mà gọi là đi 'cải tạo'. Sau này tôi biết chị em nó cũng đi vượt biên, nhưng khi bị bắt, ba nó cũng phó thác chị em nó cho nhà nước. Dù nó là con trai độc nhất.

Khi ông ném bom xuống Dinh Độc Lập, đối với ông đó là t́nh yêu nước. Tôi xin nói về trường hợp của ba tôi, ông được giáo dục trong một gia đ́nh có đức tin và ḷng bác ái, và nếu Bà nội tôi không bị Việt Cộng chôn sống th́ có lẽ ba tôi đă trở thành một thầy tu. Ông có biết tại sao Việt Cộng chôn sống bà tôi hay không? V́ bà tôi không chấp nhận cho tiền Việt Cộng, là một người công giáo chân chính, sống dưới độ Việt Nam Cộng Ḥa, bà tôi không thể cho tiền bọn vô thần, đồng nghĩa là tiếp tay cho Việt Cộng để bách hại người dân của ḿnh. Bà tôi lúc đó khoảng 50 tuổi, không học hành cao như ông, nhưng lại có tái tim chân chính và cái đầu c̣n nguyên vẹn.

Đến hôm nay, gia đ́nh tôi vẫn không biết họ chôn sống bà tại nơi nào, dù có người đă từng bị tụi Việt Cộng bắt đào hố chôn bà tôi, nhưng vẫn không biết chính xác .

Ba tôi may mắn không bị bắt cùng lúc với bà tôi, nếu không th́ giờ này tôi làm ǵ có cơ hội để biết ông từng ném bom Dinh Đọc Lập. Kể từ ngày bà tôi mất, ba tôi quyết hy sinh cuộc đời của ông để bảo vệ miền Nam, dù ông chỉ là một công dân b́nh thường, nhưng nơi nào có ổ Việt Cộng là ba tôi truy đuổi đến cùng. Nếu ai ở Diên Khánh trước năm 1973 th́ điều biết ba tôi, nhất là bọn Việt Cộng nằm vùng họ thù ba tôi tận xương. Sau ngày 30-4-1975, có người nhắn với mẹ tôi Việt Cộng đang t́m ba tôi để trả thù.

Ông Đinh Khắc Chung có biết vào ngày 8-4-1975, lúc ông đang thả bom Dinh Độc Lập th́ ba tôi trên chiếc Tàu của Mỹ đang tiến về Đảo Phú Quốc. Và ngày 2-5-1975, ông về lại Sài G̣n gặp lại vợ con ông an b́nh. Trong lúc ba tôi đang lo lắng cho t́nh cảnh mẹ tôi, không biết sống chết như thế nào, v́ nghe tin Cam Ranh thành b́nh địa. Thay v́ tiếp tục hành tŕnh mà ba tôi đă quyết ra đi từ lúc Pleyku bi thất thủ, nhưng ông đành phải xuống tàu để về lại quê nhà t́m kiếm vợ con. Dù ông biết rằng Việt Cộng sẽ trả thù, nhưng v́ bổn phận của một người chồng, một người cha.Tôi chưa bao giờ nghe ba tôi nói về yêu nước như mấy ông cộng sản, bây giờ lại nghe thêm ông nói về t́nh yêu nước. Tôi không hiểu tại sao các ông cộng sản lại thích dùng cái từ cao quư này, cái t́nh yêu nước cao cả bị lợi dụng để biện minh cho hành động của ḿnh.

Để kết thúc câu chuyên của những người ở miền Nam, lúc đó tôi c̣n nhỏ nhưng tôi thấy có Nhân dân Tự vệ, và biết rằng dù trai hay gái, già hay trẻ đều có bổn phận cái ǵ thuộc về quyền của ḿnh, họ hy sinh tuổi thanh xuân để bảo vệ tổ quốc đồng nghĩa bảo vệ gia đ́nh ḿnh. Khi biết có Việt Cộng về làng là họ đánh kẻng báo động. Trong khi ông Nguyễn Thành Trung lại lợi dụng nền giáo dục và sự công lư của một nền dân chủ có luật pháp rơ ràng, rồi góp tay phá hoại không những cho người dân ở miền Nam đồng thời phá hại cả đất nước. Không biết ông đă đọc "Thép Đen" của Đặng Chí B́nh hay chưa? Nếu chưa nên đọc để mà thấm thía và suy nghĩ về một điệp viên ở Miền Nam, nhưng họ là người Việt Nam Công Ḥa ông ạ.

Hiện trạng dân tộc Việt Nam như ngày hôm nay v́ có nhiều những người được cho là 'yêu nước' như ông Nguyễn Thành Trung mà tên khai sinh là Đinh Khắc Chung.

Lê Anh - http://danlambaovn.blogspot.com/2013/04/mia-mai-chua-xot-ve-long-yeu-nuoc.html#more

Có một giờ G khác vào năm 1974

SGTT.VN - 35 năm hoạt động, trên vai áo ông từng đeo quân hàm không quân hai bên là đối thủ của nhau. 22.000 giờ bay với nhiều loại phi cơ chiến đấu và dân dụng hiện đại nhất từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu. Những nếm trải cuộc đời, dường như Nguyễn Thành Trung chẳng thiếu thứ nào. Người ta thường nói vinh quang đi cùng cay đắng. C̣n ông, sống chết, tù tội chẳng màng, nhưng những giây phút cô đơn trong cuộc sống hoà b́nh, ngay trong ḷng đồng đội th́ thật dài và khó quên. Tháng tư đến rồi lại đi cùng kư ức…

Chặng đường lịch sử dài 38 năm có quá nhiều biến cố, sự kiện ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đối với ông có ư nghĩa ǵ? Bây giờ nghĩ về giây phút ấy ông cảm thấy thế nào?

Đối với cá nhân tôi, ngày 8.4.1975 là một bước ngoặt lịch sử quan trọng nhất trong cuộc đời. Lái chiếc máy bay F-5E ném hai trái bom xuống dinh Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu vào kho xăng Nhà Bè, là hành động mà tôi ấp ủ trong một quá tŕnh dài, ngay từ thời trai trẻ.

Đối với tôi, chấm dứt chiến tranh để người Việt Nam không c̣n đổ máu là một việc lớn phải làm. Đó không phải là cảm hứng nhất thời, hay bất chợt, liều lĩnh. Sự nỗ lực cá nhân suốt bao nhiêu năm ở khoa toán – lư đại học Khoa học Sài G̣n, trong vỏ bọc sĩ quan không lực Việt Nam Cộng hoà, hay tại các trung tâm học lái máy bay chiến đấu ở Hoa Kỳ từ năm 1969 – 1972 tôi vẫn chuyên chú cho hành động ấy. Tôi âm thầm luyện tập hạ cánh ở cự ly gần 1.000 mét (trong khi máy bay F-5E phải đáp trên đường băng dài tối thiểu 3.000 mét) đến độ hư hai máy bay và phải chịu kỷ luật hạ lương, giáng chức, suưt nữa là bị lộ tại sân bay Biên Hoà. Nhờ vậy mà ngày 8.4 năm ấy tôi đă hành động chính xác, đáp xuống an toàn tại sân bay dă chiến Phước Long vừa giải phóng. Có thể gọi đó là sự chính xác của lư trí và khoa học. Bước ngoặt 180 độ đó cho tôi được chính danh là tôi – Nguyễn Thành Trung như ngày hôm nay.

Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những ḍng tít lớn gọi ông là “phi công phản chiến”?

Đúng vậy, cấp trên nói với tôi là cần tuyên truyền như vậy để kêu gọi những người trong lực lượng không quân Sài G̣n tiếp tục phản chiến. Tôi nghĩ nói sao cũng được, vấn đề là tôi có làm được nhiệm vụ không? Có c̣n sống để trở về không? Từ năm 1969, tôi đă là đảng viên.

C̣n các đồng nghiệp của ông nói ǵ về hành động của ông?

Ngay lúc đó th́ tôi không biết họ nói ǵ, nhưng sau này nhiều người cho là tôi hành động hơi dại dột, bởi trước mắt tôi là một hợp đồng với phía Mỹ, sẵn sàng bảo lănh vợ con tôi sang sống ở Mỹ với điều kiện tốt nhất. Nhưng đó không là lựa chọn của tôi.

Vậy lựa chọn của ông bắt nguồn như thế nào, truyền thống cách mạng của gia đ́nh hay sự tự giác của cá nhân ông?

Ba tôi là một người yêu nước, chống thực dân và hy sinh tại quê nhà. Các anh tôi cũng đi theo con đường yêu nước của ba tôi. Cái chết của ba tôi, càng làm cho tôi ư thức rơ ràng hơn là phải góp phần làm cho chiến tranh sớm chấm dứt, quê hương và dân tộc ḿnh phải được sống trong cảnh thanh b́nh. Tôi là người biết rơ ḿnh là ai, ḿnh cần phải làm ǵ. Những việc quan trọng cần làm tôi luôn dự liệu trước hàng chục năm.

Thời khắc đó ông có nghĩ đến sự an toàn của vợ và hai con c̣n quá nhỏ đang sống ở thành phố Biên Hoà? Có khi nào ông cảm thấy khổ tâm hay hối hận về hành động của ḿnh mang lại nỗi vất vả cho vợ con?

Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lănh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng giải phóng để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ bị lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đ́nh tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không rơ lư do th́ tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, t́nh thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đă tính trước 10 năm đến thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài G̣n cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan ǵ đến công việc của tôi, con tôi c̣n quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tṛn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.

Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối v́ ḿnh không biết ǵ về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đă dùng c̣ng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào pḥng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quư giá nào th́ bà cứ mang theo”. Một tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hoà về số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sài G̣n cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ vẫn điều tra vợ tôi về những ǵ liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hoá với người thân của kẻ thù. Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện tṛ ǵ không hay cần mua sắm ǵ th́ ông sẽ giúp đỡ.

Vậy đó, ngày 2.5.1975, tôi lái máy bay từ Phan Rang về sân bay Biên Hoà. Vợ con tôi cũng vừa được giải thoát khỏi số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi gặp lại nhau trong ngôi nhà nhỏ của ḿnh.

Sau ngày thống nhất đất nước, đối diện với bao khó khăn của cuộc sống thường ngày do nền kinh tế bao cấp áp đặt, những lúc ngột ngạt, mệt mỏi ông nghĩ ǵ?

Tôi là người được học hành tử tế trong những ngôi trường khá lư tưởng của Sài G̣n và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu khác nhau, tôi biết rơ những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước ta. Bi kịch cải cách ruộng đất c̣n nguyên đó, công nghiệp chẳng có ǵ. Khu gang thép Thái Nguyên c̣n thô sơ lắm, Dệt Nam Định, Sứ Hải Dương chỉ sản xuất được những mặt hàng tiêu dùng cấp thấp, đặc biệt là hạn chế về tŕnh độ của cán bộ quản lư. Sự khác biệt về ư thức hệ giữa hai miền, nhất là do đặc thù của nền kinh tế tự cung tự cấp, cho tôi nh́n rơ sau khi Việt Nam thống nhất, kinh tế sẽ cực kỳ khó khăn ít nhất là mười năm. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với những khó khăn chung, và cả những khó khăn về mặt cá nhân, nghi ngờ, hay có những phân biệt đối xử này nọ... Tôi chấp nhận đối diện thực tế đó và nghĩ điều quan trọng nhất ḿnh có được là dân tộc Việt được sống trong hoà b́nh.

Thực tế mười năm khó khăn như ông nói cũng đă được tháo gỡ bởi bước chuyển đổi mới. Nhưng tới bây giờ, người ta lại tiếp tục đưa ra dự báo ḿnh lại đang hụt hơi, tụt đà. Ông nghĩ thế nào?

Thực ra đổi mới một phần v́ khi ḿnh tiếp xúc với thế giới mới ngộ ra một điều là đang bị co trong ṿng luẩn quẩn, không t́m ra lối thoát trong khi thế giới ào ào tiến lên. Từ ảnh hưởng đó đồng thời tác động mạnh của cuộc khủng hoảng Đông Âu tới ḿnh và cả Trung Quốc, bắt buộc phải một phần nào đó chấp nhận cách làm ăn mới, có sự tư hữu. Tư hữu của thế giới ḿnh không chấp nhận, nhưng con người có quyền tư hữu từ hàng ngàn năm về trước. Ḿnh luẩn quẩn trong khi thế giới đang tiến lên bởi ḿnh không chấp nhận dân làm giàu. Cho nên bắt buộc ḿnh phải công nhận, phải chấp nhận tư hữu ở một mức độ nào đó để dân thở được. Khi đó dân bắt đầu làm ăn được. Cải cách v́ vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu muốn không tụt đà th́ phải nương vào sức dân, dân giàu th́ nước mới mạnh.

Sau ngày 30.4, ông có thường gặp lại đồng nghiệp trong những phi đội cũ? T́nh cảnh và và tâm thế lúc gặp lại như thế nào?

Bẵng mười năm sau giải phóng, tôi không gặp lại ai trong nhóm những đồng nghiệp cũ. Sau đổi mới, từ năm 1986 trở về sau này, các đồng nghiệp cũ của tôi lần lượt về mới có dịp gặp lại. Lớp tôi có 23 đứa, chết hết bốn, 18 đứa qua Mỹ, chỉ c̣n ḿnh tôi ở lại. Những lần gặp cũng dễ nói chuyện v́ họ đă hiểu rơ mọi chuyện. Tôi cũng hoàn toàn hiểu và tôn trọng họ. Đa phần những đồng nghiệp của tôi đều ở Mỹ. Lúc mới về, tâm lư chung mấy người bạn đều ngại gặp tôi. Tôi th́ chả ngại ǵ, tôi vẫn xem họ là những người bạn. Khi gặp cũng tâm sự nhiều, cũng so sánh chuyện cũ, chuyện bây giờ. Ai cũng công nhận việc tôi làm là góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt cảnh chết chóc, đổ máu. Nhưng điều họ chia sẻ là họ không dám có những quyết định như vậy.

Những người bạn lựa chọn khác tôi lúc qua Mỹ c̣n trẻ nên ai hội nhập được, sống khá giả. Năm nào mấy ổng cũng ngồi lại với nhau, chuyện nói nhiều nhất là về tôi. Nhiều anh em bảo quyết định của tôi hơi dại dột, v́ sau giải phóng sống kiểu ǵ cũng bị nghi ngờ, đói khổ… Tôi trả lời đó không phải là quyết định bậy bởi tôi ư thức được việc cần làm. Cái ǵ cũng vậy, làm th́ phải trả giá nhưng tôi chấp nhận việc đó. Nhưng qua những thăng trầm của đất nước, nhiều kinh nghiệm cuộc đời đúc kết lại, tôi thấy việc tôi làm càng ngày càng đúng. C̣n hỏi tôi có lăn tăn hay không, tôi trả lời thật là thánh mới không lăn tăn, nhưng những cái lớn nhất át những lăn tăn nhỏ đi, nên hàng đêm tôi ngủ yên v́ biết tôi đang ngủ trên đất nước ḿnh, chứ qua Mỹ sướng thật nhưng ngủ không yên bởi lúc nào cũng đau đáu một quê hương chỉ c̣n trong kư ức. Nhiều đứa bạn nói thẳng: “Đến bây giờ mới nghe được một người nói điều đó là mày”. Chúng tôi gặp nhau trao đổi thẳng thắn, không giấu giếm điều ǵ, nói đến tận cùng suy nghĩ của mỗi người.

Với ông, quê hương là thế nào?

Tôi có tới hai quê hương. Một Bến Tre nơi tôi sinh ra, nơi đó là ḍng tộc máu mủ, nơi đó cha mẹ tôi đă nằm xuống cho chúng tôi trưởng thành. Vốn là xứ học, địa linh nhân kiệt, nhiều tên tuổi trí thức lớn Việt Nam xuất phát từ đây. Những Phan Thanh Giản, Vơ Trường Toản, Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Đ́nh Chiểu… là những tấm gương của nhân – nghĩa – lễ – trí – tín mà tôi từng học được.

C̣n một quê hương khác, Sài G̣n đối với tôi là máu thịt, là t́nh yêu, là ǵ đó không thể lay chuyển được dù cho năm tháng trôi qua, nh́n góc phố thay đổi, cũng nhiều lúc buồn vui hờn giận, tiếc nuối…

Ông từng thổ lộ về một người bạn rất thân, giữa ông với người đó h́nh như có một món nợ ân t́nh đến nay vẫn c̣n đau đáu?

Người bạn ấy đến giờ sau 38 năm vẫn chưa gặp lại mặc dù tôi nghe tin ảnh có quay về. Ảnh cùng ở phi đoàn phản lực không quân Sài G̣n với tôi nhưng không phải cùng lớp. Anh ấy là một người đặc biệt. Khi đó, lănh đạo báo cho tôi biết có một cán bộ nội tuyến trong lực lượng pháo binh bị bắt khai có một phi công quê Bến Tre là nội tuyến của Việt cộng. Tôi nhẩm tính trong không quân có độ chục người gốc gác Bến Tre, riêng phi đoàn phản lực th́ có tôi và người bạn mà tôi kể ở trên, người cùng xă, cùng học trường tiểu học nhưng trên tôi hai lớp. Khi thông tin bị lộ như thế th́ tất cả những người gốc Bến Tre đều bị triệu tập điều tra. Anh bạn tôi bị ngưng bay, an ninh không quân gọi lên làm việc liên tục. Anh ấy không biết có chuyện ǵ, nhưng tôi th́ biết rơ nguyên nhân. Tuy lư lịch anh ấy không có vấn đề ǵ nhưng anh có người chị học đại học sư phạm từng tham gia biểu t́nh chống Mỹ và chính quyền Sài G̣n. Lúc đó, tôi cũng như ngồi trên lửa, nhiều chuyện không thể tâm sự, chia sẻ với ai được. Khoảng một tuần sau, tôi gặp ảnh và tôi nghĩ ảnh biết rơ về tôi, từ gia đ́nh đến công việc của tôi. Ảnh nói: “Riêng mày th́ tao “ba không”, ai hỏi tao về mày tao cũng không biết, không nghe, không thấy”. Khi nghe câu đó, tôi nhập tâm đến giờ, tới chết tôi sẽ mang theo lời nói và h́nh ảnh của anh ấy.

Tôi ngẫm nghĩ ở đời có nhiều người cực xấu nhưng cũng có nhiều người cực tốt. Cái tốt - xấu đó mong manh lắm, nhưng người ta không cần xác nhận. Là bạn thân nên anh ấy bảo vệ chứ không phải v́ tôi là Việt cộng hay cán bộ mà anh ấy ứng xử như vậy. Trong thâm tâm tôi nhiều lần muốn gặp lại anh ấy, nhưng để làm ǵ, nói một lời cảm ơn liệu có ư nghĩa ǵ? Tôi động viên ḿnh có lẽ trong t́nh cảnh ấy đến giờ chỉ cần hai tâm hồn bạn bè hiểu nhau là đủ. Tôi nguyện cho tới chết tôi sẽ mang điều ấy theo.

Ông đă bước ra khỏi vỏ bọc của một điệp viên, lái máy bay trên bầu trời hoà b́nh, và làm công việc đào tạo, hết ḷng với một thế hệ phi công trẻ Việt Nam. Điều đọng lại trong ông sau thời gian dài gắn bó với công việc đào tạo, huấn luyện ấy là ǵ?

Giă từ cuộc chiến, tôi thấy ḿnh làm khá nhiều việc mà những việc đó chắc không phải ai cũng làm được. Hồi c̣n sống, anh Hai Trung (tướng t́nh báo Phạm Xuân Ẩn) nói nửa đùa nửa thật: “Việc ông ném bom dinh Độc Lập, Nhà nước phong ông anh hùng th́ tôi không nói làm ǵ, c̣n công việc ông làm sau này nếu được, tôi phong ông hai lần anh hùng nữa”. Anh Hai Trung hiểu về công việc đặc thù của tôi. Khi giải phóng, cả một bề thế không quân chế độ cũ bỏ lại, tôi là người làm sống lại phi đội A37 sau này tham gia đánh Tân Sơn Nhất vào ngày 28.4 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. F5 là máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Sài G̣n lúc bấy giờ mà Mỹ bỏ lại mấy phi đoàn nhưng không có người bay. Giá trị vậy nhưng bỏ lại quá lâu bị hư hại nhiều, có chiếc bị bắn phá thủng lỗ chỗ. Nhiều chiếc c̣n bị bộ đội tiếp quản tháo đi những tiện nghi nội thất hay linh kiện quan trọng… Sau khi thành lập bộ phận tiếp quản, tôi nhận nhiệm vụ làm sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi là người bay thử. Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo lắm, c̣n tôi th́ như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn sàng t́nh huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi lần bay, nhiên liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm trong cuộc sống, con ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái, huống chi chuyện nhiên liệu chỉ đủ bay một ṿng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà tôi kể trên là như vậy đó.

Tháng 8.1975 sau khi hồi phục xong rồi, tôi huấn luyện cả một phi đội, bay thành thục F5 để thành lập trung đoàn không quân 935, sau này trở thành trung đoàn anh hùng.

Đă quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, c̣n điều ǵ ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?

Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết v́ Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.

Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lănh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đă lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.

150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều kư tên chung vào một lá đơn t́nh nguyện “Xin được chết v́ Hoàng Sa”.

Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi ǵ, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm pḥng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dơi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh ch́m tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.

Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về c̣n Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa th́ không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đ̣i đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích. Nhưng giờ G ấy đă không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn ch́m và bị thương trên đảo. Dường như v́ lợi ích của ḿnh, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lănh thổ của quốc gia khác.

Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc ḿnh, cha ông ta đă đắp xây nên bờ cơi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng ǵn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi ḿnh chết cho Hoàng Sa th́ vinh dự hơn!

Là người đi nhiều nơi, có điều kiện tiếp cận với chuyện làm ăn, ông thấy phẩm chất, tư cách của người Việt Nam có đứng được ở những thị trường minh bạch?

Cũng tuỳ người. Thí dụ như thị trường Lào, nhiều nhà đầu tư của ḿnh không dám qua đó nữa bởi v́ làm kiểu nói dóc, hứa nhiều nhưng làm chẳng bao nhiêu. Họ nói thẳng là mấy ổng đó qua họ không tiếp. Cách làm ăn của người Việt ḿnh cũng có nhiều cái người ta không chấp nhận, chỉ chụp giật, bốc hốt ở đây thôi chứ ra ngoài người ta không chấp nhận.

Hiện nay ông có bằng ḷng với cuộc sống của ḿnh?

Thời nào tôi cũng bằng ḷng với hiện tại. Thời khó khăn nhất cũng như khi đất nước đổi mới đến nay, tôi bằng ḷng với những cái ḿnh hiện có. Đó là hạnh phúc tự tạo. Nếu để làm giàu tôi sẽ đi đường khác và tôi biết cách làm giàu, nhưng tôi đă không lựa chọn như vậy. Tôi vẫn nghĩ “tri túc tiện túc hà thời túc”, ḿnh biết đủ th́ lúc nào cũng đủ, c̣n ham muốn, lúc nào cũng thấy thiếu th́ không bao giờ đủ cả. Tôi bằng ḷng với cuộc sống con cái học hành đàng hoàng, lễ phép với cha mẹ. Hiện tôi vẫn chưa nhàn được, tôi vẫn đi làm thuê, nhưng làm để vui, chứ làm để buồn th́ tôi không bao giờ làm.

Để giải toả những mệt mỏi trong công việc, ông có chơi thú giải trí ǵ khác?

Tôi cũng thích nhiều nhưng tự thấy ḿnh không có điều kiện, chẳng hạn như đánh golf , làm sao đủ sức, đủ tiền mà vác cái gậy mấy chục ngàn đô. Đối với tôi bây giờ sức khoẻ là trên hết, liệu sức để làm việc thôi. Tôi sống trên không nhiều quá rồi, giờ ngồi dưới đất thú thực là thấy tay chân tù túng, bay một tí cho vui nên đến nay tôi vẫn bay đều.

Cảm ơn về cuộc tṛ chuyện chân t́nh và thẳng thắn của ông.

thực hiện: Trung Dũng – Minh Nguyễn

chân dung hội hoạ: Hoàng Tường

http://sgtt.vn/Loi-song/177101/Co-mot-gio-G-khac-vao-nam-1974.html

Anh hùng Nguyễn Thành Trung tên thật Đinh Khắc Chung, sinh ngày 9.10.1947 tại xă An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Năm 1965, ông được ban Binh vận T2 (khu 8) đưa lên Sài G̣n với một bản lư lịch thay đổi bằng tên mới là Nguyễn Thành Trung. Năm 1969, sau khi được kết nạp Đảng, ông được bố trí vào cơ sở nội tuyến trong lực lượng không quân Sài G̣n. Được sự chỉ đạo trực tiếp bí mật của cơ sở nội tuyến, ông có nhiệm vụ phải ẩn ḿnh chờ giờ G ném bom dinh Độc Lập.

Ông hiện là đại tá không quân Việt Nam, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang ngày 20.12.1994.