trang chính  ||    lưu trữ    ||   liên lạc

Lược Sử Đại Việt Quốc Dân Đảng

Lịch sử dân tộc Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến cũng là bốn ngàn năm chiến đấu để sinh tồn.
Vào tiền bán thế kỷ 20, xă hội Việt Nam bị tràn ngập bởi các tư tưởng Đông Tây kim cổ và dân tộc đang chịu sự tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân Pháp trong khung cảnh của toàn thế giới đang sôi sục v́ các mâu thuẫn về quyền lợi và ư thức hê.. Các dân tộc đều t́m mọi cách nắm lấy cơ hội vươn lên dành sự sống.
Trước t́nh h́nh đó, một tập thể thanh niên, kế thừa truyền thống kiên cường bất khuất của tổ tiên, noi theo tiếng gọi thiêng liêng của các đấng anh hùng, liệt sĩ trong những thập niên trước, đă cùng nhau thề nguyền, kết hợp, quyết tâm đưa dân tộc ra khỏi cảnh suy vong.
Một thanh niên tài trí lỗi lạc, phẩm hạnh cao qúi được bạn hữu tín nhiệm, mến phục, đứng ra nhận lănh trách nhiệm viết và công bố Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn đồng thời thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng.


- Người đó là Đảng Trưởng Trương Tử Anh.
- Ngày đó là ngày 10 tháng 12 năm 1939.

I. TỔ CHỨC ĐẢNG:

Cơ cấu Trung Ương đầu tiên của Đại Việt Quốc Dân Đảng gồm các Đồng chí :
Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Sĩ Dinh, Phan Cảnh Hoàng, Trương Bá Hoành, Đặng Vũ Trứ, Nguyễn Sơn Hải, Tạ Thành Châm, Phan Bá Trọng, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Định Quốc, Vơ Văn Hải, Nguyễn Văn Viễn, Đặng Xuân Tiếp, Giáo Lai, BS San.
Rút kinh nghiệm từ các tổ chức cách mạng có trước, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Đại Việt Quốc Dân Đảng rất chặt chẽ và bảo mật. Bí mật là một nguyên tắc căn bản của Đảng.
Thời bây giờ, Viện Đại Học Hà Nội là nơi quy tụ tất cả sinh viên trong toàn cơi Đông Dương, v́ vậy tổ chức Đại Việt Quốc Dân Đảng nhanh chóng lan rộng khắp các miền Bắc, Trung, Nam, Cam Bốt và Ai Laọ

1. Xứ Bộ Bắc Việt:

Xứ Bộ Bắc Việt đặt trực thuộc Trung Ương Đảng do chính Đảng Trưởng trực tiếp điều khiển với sự phụ tá của Đồngh chí Đặng Vũ Lạc. Xứ bộ Bắc Việt được xem như là nơi tập trung nhiều cán bộ ṇng cốt: Ngô Gia Hy, Đặng Văn Sung, Bùi Diễm, Trần Trung Dung, Nguyễn Đ́nh Luyện, Phan Huy Quát, Đặng Trinh Kỳ, Vũ Qúi Măo, Cung Đ́nh Qùy, Trần Như Thuần, Đào Nhật Tiến, Nguyễn Tất Ứng, Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Đ́nh Tại, Lê Thăng, Nguyễn Dương Côn, Phan Trọng Nhân, Trần Đỗ Cung, Nguyễn Đ́nh Tú, Nguyễn Quốc Xủng và 2 nữ Đồng chí là Đặng Thị Khiêm, tức Bà Cả Tề và Bà U (kế mẫu của Đồng chí Ngô Gia Hy).

2. Xứ Bộ Trung Việt:

Xứ Bộ Trung Việt do Đồng chí Bửu Hiệp là Xứ Trưởng v`a Đ/C Hà Thúc Kư làm phụ tá. Ban Chấp Hành Xứ Bộ Trung Việt gồm có Đ/C Bửu Viêm, Nguyễn Văn Mân, Hoàng Xuân Tửu, Vơ Lương, Bảo Trọng, Dương Thiệu Di, Vơ Lăng, Đoàn Thái, Nguyễn Văn Lư.

3. Xứ Bộ Nam Việt:

Xứ Bộ Nam Việt trước tiên do Đ/C Nguyễn Văn Hướng phụ trách. Sau đó, Đ/C Phan Thông Thảo tức Lê Quốc Hưng thay thế.
Ban Chấp Hành đầu tiên của Xứ Bộ gồm có các Đ/C Lê Văn Hiệp, Phạm Đăng Cảnh, Trần Văn Xuân, Nguyễn Văn Kiểụ
Riêng Đ/C Nguyễn Tôn Hoàn được Trung Ương giao trách nhiệm phối hợp viên giữa các Xứ Bộ và cũng là phát ngôn viên của Đảng.

4. Chi Bộ Đảng Trưởng:

Đồng thời với sự h́nh thành các Xứ Bộ Bắc, Trung, Nam, một tập thể nam nữ thanh niên tại tỉnh Phú Yên với nhiệt t́nh yêu nước, được hun đúc trong khí thế cách mạng đă tụ họp nhau thành lập chi bộ Đảng Trưởng. Thành phần lănh đạo gồm có các Đ/C Huỳnh Kim Giai, Đỗ Khuê, Nguyễn Kiến Siêu, Trương soạn, Huỳnh Anh, Vơ Thị Trang, Trương Thị Thỉnh v.v…

5. Tại Cam Bót và Lào:

Đảng Trưởng cũng điều động một số Đảng viên quê hương Phú Yên đến làm ăn sinh sống và bí mật xây dựng cơ sở.
Trên đây chúng ta vừa ghi lại danh tính của các Đ/C đă giữ những vai tṛ tiên phong của Đảng, dễ dàng t́m thấy qua các tài liệu, báo chí. Trong suốt qúa tŕnh hoà.t động và phát triển, ĐVQĐD đă kết nạp hàng trăm ngh́n Đảng viên thuộc mọi nghành, mọi giới:

* Từ nông dân, viên chức xă ấp đến giáo sư đại học.
*Từ người thợ, tiểu thương, nhân viên văn pḥng đến giám đốc, tổng bộ trưởng.
*Từ nghĩa quân, binh sĩ nơi tiền đồn hẻo lánh đến các sĩ quan, tướng lănh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥạ
Đảng viên ĐVQĐD cũng là những tín đồ ngoan đạo của các tôn giáo lớn tại Việt Nam như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Ḥa Hảo, Tin Lành…v́ họ tin tưởng vào sự mầu nhiệm của sự sinh tồn của muôn loài muôn vật, trong đó có sự sống c̣n của dân tộc Việt Nam thân yêu.

II. HOẠT ĐỘNG:

Nói theo truyền thống tự lập, tự cường của tổ tiên trong công cuộc giữ nước và dựng nước, Tuyên Ngôn 1939 của Đại Việt Quốc Dân Đảng nêu rơ: ” Chúng ta phải nhận thức rằng trên lập trường quốc tế, giữa các quốc gia chỉ có quyền và lợi mà thôị Mọi hành động của nước này đối với nước khác không ngoài mục đích ấy”.
Nắm vững tư tưởng chỉ đạo này, Đại Việt Quốc Dân Đảng nhanh chóng xây dựng các căn cứ quân sự từ vùng Đông Bắc, Tây Bắc châu thổ sông Hồng, dọc theo trường sơn vào đến miền Đông Nam Việt và vùng sông nước Cửu Long.
Trung Ương ĐVQĐD cũng nhạy bén đưa ra những chính sách, đường lối nhằm làm chủ t́nh h́nh chính trị, đối đầu hữu hiệu với Cộng Sản và thực dân Pháp.

A. Các chiến khu và cơ sở quân sự của Đại Việt Quốc Dân Đảng.

Để hổ trợ cho các lực lượng hoạt động trong quần chúng tại các đô thị cùng làm nơi dự trữ lương thực, vũ khí, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ…Đảng chú trọng thành lập các chiến khụ

1. Chiến Khu Kép:
Vùng Kép, thuộc tỉnh Bắc Giang là nơi có địa lợi và nhân ḥạ Tại đây có quốc lộ 1 và thiết lộ từ Lạng Sơn về Hà Nội và cũng là nơi có số Đảng viên ĐVQĐD phong phú về phẩm và lượng của liên tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn. Lực lượng vũ trang của Chiến Khu Kép dưới sự chỉ huy của Đ/C Vũ Đ́nh Huyên là một áp lực mạnh mẽ đối với Cộng quân, vừa có khả năng khóa chặc đường vận chuyển của địch vừa sẳn sàng chuyển quân nhanh chóng về Hà Nội, dọn dẹp sạch sẻ Bắc Bộ Phủ.

2. Chiến Khu Lạc Triệu:
Làng Lạc Triệu là một làng đất nổi cao lên giữa khu Lục Đầu Giang rộng lớn. Khi thủy triều lên, làng Lạc Triệu trở thành một cù lao giữa biển nước mênh mông sát tận chân trờị Lư trưởng Hội Đồng Kỳ mục và tất cả nhân dân trong làng đều là Đảng viên ĐVQĐD. Lănh thổ chiến khu Lạc Triệu gồm có xă Lạc Triệu và các xă chung quanh bao bọc theo Lục Đầu Giang.

3. Trường Sĩ Quan Lạc Triệu:
Trường Sĩ Quan Lạc Triệu đặt tại Chiến Khu Lạc Triệụ Đ/C Triệu Giang tức tướng Phạm Cao Hùng, một sĩ quan tốt nghiệp trường Hàng Phố, Phục vụ trong quân đội Trung Hoa Dân Quốc chống Nhật quân hàm cấp tướng, được Đảng Trưởng cử giữ chức vụ Tổng Tư Lệnh chiến khu Lạc Triệu kiêm chỉ huy trưởng trường Vơ Bị Lạc Triệụ Trường có nhiệm vụ huấn luyện các sinh viên, học sinh của các trường tại Hà Nội và các tỉnh lân cận trở thành Sĩ Quan của ĐVQĐD.

4. Trung tâm huấn luyện quân sự Lạc Triệu:
Tại một xă khác, nằm dọc theo Lục Đầu Giang cũng được chọn làm trung tâm huấn luyện Hạ Sĩ quan và binh sĩ do Đ/C Đội Vấn và Đ/C Trần Đ́nh Huyên phụ trách.

5. Trường Lục Quân Yên Bái:
Trường được thành lập năm 1945. Trong tinh thần thống nhất của Quốc Dân Quân, trường Lục Quân Yên Bái của ĐVQĐD thu nhận tất cả sinh viên sĩ quan của Mặt Trận Quốc Dân Đảng bao gồm: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính và cả Việt Minh Cách Mệnh Đồng Minh Hộị Tổng số sinh viên sĩ quan Quốc Dân Quân lên đến khoảng 500 người trong hai năm 1945-1946.

6. Chiến Khu Di Linh:
Được thành lập tại đồn điền Di Linh của cụ Trần Văn Doăn, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóạ Chiến Khu Di Linh được vũ trang hùng hậu bằng số vũ khí mua lại của quân đội Trung Hoa Dân Quốc. Từ CKDL. Đ/C Trần Hồ, Chủ Tịch Mặt Trận Quốc Dân Đảng tỉnh Thanh Hóa tiến quân chiếm một phần tỉnh lỵ Thanh Hóa đối đầu với Cộng quân.

7. Chiến Khu An Điền và Trung Đoàn 25AB:

An Điền là tên một tổng thuộc huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định, quê hương của Đ/C Trần Văn Qưới, một sinh viên trường luật Hà Nội, mang lệnh của Đảng Trưởng cho Xứ Bộ miền Nam thành lập chiến khu nầỵ
Trong đoàn 25 AB với những chiến sĩ gan dạ, được huấn luyện tinh nhuệ, trang bị vũ khí đầy đủ đă linh động bố trí lực lượng hành quân khắp các miền lănh thổ của khu chiến từ Biên Ḥa, Bà Rịa đổ qua G̣ Công, vượt Long an lên tận Đồng Tháp. Chiến sĩ An Điền nổi danh với những chiến công đánh Pháp, tiêu diệt Cộng Sản.
Những tiểu khu có cơ sở Đảng vững chắc nhất, phải nói đến địa danh: B́nh Thung, Cḥi Ṃi, Rạch Mít, Bời Lời, Quéo Bạ
Chỉ huy trưởng Trung Đoàn 25 AB là Đ/C Bùi Hữu Phiệt với bộ tham mưu gồm các Đ/C Nguyễn Văn Tại, Huỳnh Văn Thảo, Từ Tỵ, Trần Quốc Bửu, Đặng Đ́nh Nhă và các tân đồng chí thuộc lực lượng B́nh Xuyên: Tư Thiên, Ba Dương, Mười Trí, Năm Hà.
Chiến Khu An Điền cũng là nơi lui tới thảo luận t́nh h́nh chính trị, trao đổi kinh nghiệm của các lănh tụ các đoàn thể chống Cộng khác như Giáo Chủ Phạm Công Tắc, Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, cụ Hồ Nhựt Tân, tướng Tŕnh Minh Thế…

8. Các Chiến Khu An Thành và Ba Rài:
Hai chiến khu nầy được thành lập tại các tỉnh Vĩnh Long (Long Hồ) và Mỹ Tho (Cai Lậy) nhăm mục đích:
* Phát triển cơ sở Đảng trong quần chúng tại vùng châu thổ sông Cửu Long.
* Ngăn chặn các giao điểm trọng yếu của Cộng Sản.
*Huấn luyện cán bộ quân sự của Đảng quen thuộc với chiến trường và địa h́nh vùng sông nước.

9. Các chiến khu của Đại Việt Quốc Dân Đảng trong thời kỳ chống chế độ độc tài Ngô Đ́nh Diệm:
* Chiến Khu Ba Ḷng:
Được thành lập tại vùng rừng núi phía Tây tỉnh Quảng Trị nhằm mục đích chống lại chế độ gia đ́nh trị của NhuĐiệm, đồng thời cũng là cơ hội dẹp tan các âm mưu cố thủ của Cộng Sản tại nam vĩ tuyến 17. Từ Ba Ḷng các chiến sĩ Đại Việt phát triển các tiền đồn tại Thừa Thiên: Khe Mương, Dương Ḥa, Nam Đông và tại Quảng Nam: Bến Hiên, Đại Mỹ.
Bộ tư lệnh chiến khu gồm có Đ/C Hà Thúc Kư, Trần B́nh, Phạm Văn Bôn, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Lư, Hoàng Văn Hiền, Nguyễn Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Mân, Hoàng Xuân Tửu…

* Chiến Khu Nguyễn Huệ:
Được thành lập tại vùng núi phía Tây quận Tuy Ḥa do chủ trương của các Đ/C Trương Tử An, Trương Thị Thỉnh.

*Chiến Khu Châu Đốc:
Được thành lập tại vùng biên giới tỉnh Châu Đốc và Cam Bốt dưới sự chỉ huy của Đ/C Nguyễn Văn Xinh.

B. Xây dựng thành tŕ quốc gia chống Cộng:

1. Mặt Trận Chính Trị:
Song song với việc thành lập lực lượng và các căn cứ quân sự, Trung Ương ĐVQĐD luôn luôn chú trọng đến những giải pháp chính trị để đối đầu với các âm mưu thâm độc của Cộng Sản và thực dân.

a- Mặt Trận Quốc Dân Đảng:
Trong những năm 1945 – 1946 trong t́nh thế vô cùng phức tạp, ĐVQĐD chủ động công cuộc kết hợp các đảng phái quốc gia thành một lực lượng thống nhất.
Tháng 5 – 1945, tại Trùng Khánh, Đại Việt Quốc Dân Đảng đă mời các đại diện của VNQĐ, ĐV Dân Chính Đảng tham dự hội nghị gồm có các nhân vật:
* Đại diện ĐVQĐD: Nguyễn Tiến Hỷ, Đặng Vũ Trứ, Phan Cảnh Hoàn, Nguyễn Đ́nh Quốc, Nguyễn Sĩ Định, Vơ Văn Hải, Phan Bá Tro.ng.
* Đại diện VNQĐD: Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Vũ Quang Phẩm.
* Đại Diện Đại Việt Dân Chính: Nguyễn Tường Tam.
Hội nghị Tr`ung Khánh 1945 đă đạt được kết qủa:
ĐVQĐD, VNQĐD, ĐV Dân Chính kết hợp thành một tổ chức cách mạng thuần nhất với danh xưng:
ĐDại Việt Quốc Dân Đảng trong quốc nộị
-Việt Nam Quốc Dân Đảng dùng ở hải ngoại, nhất là tại Trung Quốc để thuận tiện trong ngôn ngữ ngoại giaọ
- Đảng Kỳ: Nền đỏ, ṿng tṛn xanh, sao trắng.
Cuối năm 1945, do nhu cầu t́nh thế phải đối đầu công khai với Mặt Trận Việt Minh, các đảng kể trên kết hợp thành một khối với danh xưng MẶT TRẬN QUỐC DÂN ĐẢNG.
- Cơ cấu và thành phần lănh đạo được sắp xếp như sau:
* Chủ Tịch Mặt Trận Quốc Dân Đảng: Trương Tử Anh (ĐVQĐD).
*Tổng Thư Kư: Vũ Hồng Khanh (VNQĐD).
Các Ủy Viên: Xuân Tùng (VNQĐD), Nguyễn Tường Long (ĐVDC), Phạm Khải Hoàn (ĐVQĐD), Nguyễn Tường Bách (ĐVDC), Chu Bá Phượng, Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Đ́nh Trí, Phạm Văn Hễ, Nghiêm Kế Tổ (VNQĐD), Phạm Ngọc Chi, Nguyễn Tiến Hỷ (ĐVQĐD).
Ban Bí Thư Trung Ương:
- Bí Thư Trưởng: Nguyễn Tường Tam (ĐVDC)
Trụ sở công khai của MTQĐD đặt tại trường Đỗ Hữu Vị, ngày 15-12-1945. Cờ của MTQĐD nền đỏ, ṿng xanh, sao trắng. Đảng ca là bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông của nhạc sĩ Hùng Lân. Cơ quan ngôn luận gồm nhiều tờ báo: Việt Nam, Đồng Minh, Chính Nghĩa, Đuốc Việt, Thanh Niên, sao Trắng.
MTQĐD chấp nhận Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn làm kim chỉ nam chống lại Chủ Nghĩa Mác Xít – Leninit của Cộng Sản.
MTQĐD hoạt động mạnh mẽ và có hiệu qủa khắp các tỉnh Bắc Việt vào đến Thừa Thiên và Quảng Nam.
- Bộ phận bí mật (c̣n được gọi là tối cao bí mật) gồm có: Trương Tử Anh, Nguyễn Tiến Hỷ, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam.

b- Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp:
Trong khi đó tại các tỉnh ở Nam Việt Xứ Bộ Miền Nam ĐVQĐD cũng dồn nổ lực kết hợp các lực lượng quốc giạ Các Đ/C Nguyễn Văn Hướng, Phạm Cao Hùng, Vũ Tam Anh đă triệu tập một hội nghị tại đường Phan Đ́nh Phùng, Sài G̣n, gồm các nhân vật:
-Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ Phật Giáo Ḥa Hảọ
-Phạm Hữu Đốc, đại diện VNQĐD.
-Lê Kim Ty, đại diện Cao Đài Bến Trẹ
-Các nhân vật Hồ Văn Ngà, Dương Văm Giáo, Hồ Vĩnh Kư, Lâm Ngọc Đường…
Do hội nghị này và các cuộc tiếp xúc khác đă thành lập nên Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.

c- Quốc Gia Việt Nam:
Trong năm 1947, các Đ/C Đặng Văn Sung, Nguyễn Tôn Hoàn, thành viên của Trung Tâm Chính Trị Hải Ngoại đă tiếp xúc với Cựu Hoàng Bảo Đại tiến hành một giải pháp mới: QUỐC GIA VIỆT NAM.
Đầu năm 1949, Đ/C Lê Thăng đại diện Trung Ương ĐVQĐD thân hành sang Pháp trao tận tay Cựu Hoàng một bạch thư với những điều kiện rỏ ràng, đ̣i hỏi người Pháp công nhận một nước Việt Nam độc lập, thống nhất lănh thổ, có đầy đủ chủ quyền về quân tự, ngoại giao, tư pháp, kinh tế, tài chánh, văn hóa…
Kết qủa, hiệp định Elysee được kư giữa Cựu Hoàng Bảo Đại và Tổng Thống Pháp Vincent Auriol. Ngày 1-7-1948, Cựu Hoàng Bảo Đại thành lập chính phủ đầu tiên của Quốc Gia Việt Nam, ĐVQĐD đă được mời tham chính với 5 chức vụ trong tổng số 19 ghế Tổng Bộ Trưởng:
ĐD/C Lê Thăng, Bộ Trưởng Ngoại Giao
ĐD/C Phan Huy Quát, Bộ Trưởng Giáo Dục
ĐD/C Nguyễn Tôn Hoàn, Bộ Trưởng Thanh Niên
ĐD/C Đặng Trinh Kỳ, TTK Chính Phủ
ĐD/C Nguyễn Hữu Trí, Thủ Hiến Bắc Việt.
Việc tham gia Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam là cơ hội để Đảng tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cứu nước trên các mặt trận tổ chức quần chúng và văn hóa tư tưởng.

2. Mặt Trận Quần Chúng:

a- Thanh Niên Bảo Quốc:
Ngay từ năm 1947, Xứ Bộ Miền Nam đă thành lập một đoàn thể ngoại vi đó là Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn. Đ/C Đỗ Văn Năng, người lănh đạo đoàn Thanh Niên Bảo Quốc là một thanh niên văn vơ song toàn, tâm hồn tao nhă. Đ/C đă qui tụ đông đảo thanh niên nhiệt t́nh với đất nước khắp các tỉnh miền Nam. Khi Đ/C Nguyễn Tôn Hoàn tham gia chính phủ trong chức vụ Bộ Trưởng Thanh Niên và Thể Thao, đoàn Thanh Niên Bảo Quốc phát triển rộng răi trên toàn quốc.
Trung tâm Huấn Luyện Thanh Niên tại Nha Trang thời bấy giờ ngoài việc huấn luyện chuyên môn c̣n có phần huấn luyện chính trị do các Đ/C Hoài Sơn, Hùng Nguyên, Phạm Thái phụ trách nhằm gây dựng hàng ngũ thanh niên có một lư tưởng Quốc Dia Dân Tộc vững chắc.
Tại Bắc Việt Thanh Niên Bảo Quốc lớn mạnh khắp nơi, phát triển đến tận thôn ấp xa xôị Đông đảo thanh niên hăng hái t́nh nguyện gia nhập lực lượng quân sự chống Cộng trong hàng ngũ Bảo Chính Đoàn và lực lượng Công An Cảnh Sát Quốc Gia và theo học các trường đào tạo sĩ quan của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.

b- Phong Trào Quốc Gia B́nh Dân:
Song song với việc phát triển Đoàn Thanh Niên Bảo Quốc, Xứ Bộ Đại Việt Quốc Dân Đảng Miền Bắc thành lập một đoàn thể ngoại vi, đó là Phong Trào Quốc Gia B́nh Dân. Sau buổi ra mắt trọng thể tại đường Gia Long. Hà Nội, Phong Trào Quốc Gia B́nh Dân hoạt động mạnh mẽ trên toàn lănh thổ Bắc Việt, thu hút hầu hết các đoàn thể chính trị và tôn giáọ Mục đích của Phong Trào là đoàn kết các tầng lớp dân chúng để xây dựng một chính quyền Quốc Gia Dân Tộc vững mạnh và triệt để chống Cộng Sản.

3. Mặt Trận Tư Tưởng Văn Hóa:

Cuộc chiến đấu chống Cộng Sản và thực dân là một chặn đường của một cuộc tranh đấu không ngưng nghỉ để dành lấy sự tồn tại và vươn lên của Dân Tộc. Đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng trong mọi cấp không lúc nào lăng quên nhiệm vụ chiến đấu trên mặt trận tư tưởng để nâng cao ư chí kiên cường và ḷng yêu nước trong sáng.
Trong thời kỳ mới thành lập, Trung Ương Đại Việt Quốc Dân Đảng bí mật lưu hành tập san Việt Nam để phổ biến tư tưởng cách mạng, Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn, chính sách và lập trường của Đảng. Nhiều đoàn Hướng Đạo đă được Đảng viên ĐVQĐD lănh đạp phát huy tinh thần yêu nước, giúp đỡ đồng bào trong t́nh yêu thương ruột thịt. Đảng cũng phát động phong trào nghiên cứu lịch sử dân tộc, từ đó các đoàn viên, thanh niên t́m về các di tích lịch sử. Các tác phẩm thi, văn, nhạc, kịch, họa…ca ngợi cảnh đẹp của sông núi, chiến công oanh liệt của tổ tiên ngày càng nở rộ và khởi sắc.

Những năm 1944-1946, trong thời kỳ chiến đấu cam go với Cộng Sản và thực dân, ĐVQĐD trong Mặt Trận QĐD chú trọng vạch bột mặt thật phản dân hại nước của Chủ Nghĩa Cộng Sản và bọn người Cộng Sản trên các trang báo: Việt Nam, Đồng Minh, Chính Nghĩa, Đuốc Việt, Thanh Niên, sao Trắng.
Năm 1947, Xứ Bộ Trung Việt dưới sự lănh đạo của các Đ/C Bửu Hiệp và Hà Thúc Kư phát hành nguyện san Xă Hội nhằm quảng bá tư tưởng cách mạng dân tộc của ĐVQĐD trong quảng đại quần chúng và nội san Sinh Tồn là tài liệu học tập, huấn luyện Đảng viên.

Trong thời kỳ Bộ Giáo Dục đă cho phổ biến bộ sách giáo khoa dùng cho bậc tiểu học nhằm xây dựng tuổi thơ Việt Nam một nền tảng đạo đức: cha)m học, luyện tập thân thể, yêu mến gia đ́nh, tôn kính anh hùng liệt sĩ, yêu quê hương đất nước…bằng những bài văn xuôi, văn vần ngắn gọn, xúc tích, h́nh vẽ mỹ thuật.
Trong những năm 1949-1952, trong khi các tổ chức quần chúng của ĐVQĐD nở rộ, các Đ/C Đặng Văn Sung, Vương Hữu Đức, Trần Việt Sơn, Lê Thăng, Phan Huy Quát, Đặng Trinh Kỳ, Nguyễn Dương Đôn, Lê Xuyên Lê B́nh Thăng…đă đóng góp bài vở cho tờ Thanh Niên, cơ quan ngôn luận của tổ chức ngoại vi của Đảng.

Sau những năm 1954, t́nh h́nh Việt Nam và quốc tế vô cùng sôi động để tiến đến một sự áp đặt mới cho vùng Đông Nam Á, tập san Đuốc Việt và báo Tự Quyết đă đóng một vai tṛ xuất sắc; bằng những lời lẽ đanh thép, thẳng thắn, b́nh dị, các Đ/C Hùng Nguyên, Phạm Thái và ban biên tập đă bắn những phát đại bác vào thành lũy Cộng Sản, thực dân, phong kiến gây cho độc gỉả sự thích thú và hiểu rỏ chân tướng những kẻ thù của dân tộc.

Nhà xuất bản Tự Quyết của Xứ Bộ Miền Nam cũng phát hành các tác phẩm của Đ/C Hùng Nguyên và Phạm Thái:
-Dân Tộc Hay Giai Cấp
-Thử Đặt Một Nền Tảng Khoa Học Cho Chủ Nghĩa Quốc Gia
-Truyện Năm Người Thanh Niên
-Tập Thơ Hồn Việt

Những văn phẩm này đem lại một ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với lớp thanh thiếu niên mới lớn trong thập niên 50-60, giữ ǵn họ không bị cám dỗ bởi chiêu bài yêu nước gỉa mạo của Cộng Sản Việt Nam, một thứ tôi tớ của Cộng Sản Nga, Tàụ Sau này, khi trưởng thành, các thanh niên trong lớp tuổi này, dù không là Đảng viên ĐVQĐD, nhưng những tư tưởng yêu nước trong sáng của tuổi thiếu thời đă làm họ thành những chiến sĩ Quốc Gia chống Cộng Sản trong hàng ngũ Quân, Dân, Cán, Chính của chính thể Việt Nam Cộng Ḥa.

Hiệp Định Geneve 1954 chia đôi đất nước Việt Nam do Thực Dân và Cộng Sản sắp đặt. Miền Bắc dưới sự thống trị của Đảng Cộng Sản Hà Nội. Miên Nam dưới thể chế Tự Do Dân Chủ. Xứ Bộ Bắc Việt chỉ có một số đảng viên nồng cốt là vào được Miền Nam. Tại Miền Nam trong 21 năm (1954-1975) dù điều kiện họat động khá khắc nghiệt, song ĐVQDĐ đă phát triển không ngừng. Có thể nói từ bưng biền, ruộng đồng hẻo lánh đến phố thị phồn hoa, từ mọi ngành nghề, mọi giới, mọi lănh vực quân sự, văn hóa xă hội kinh tế, giáo dục  vv… đâu đâu cũng có cán bộ đảng viên họat động. Nh́n lại quá tŕnh 21 năm đó đă có hàng ngàn hàng vạn đảng viên Đại Việt đă cùng quân dân Miến Nam chiến đấu anh dũng và đă hy sinh.

1975- đất nước rơi vào tay quân dữ . Đau thương, tù ngục, chết chóc, chia cách … phủ trùm Tổ Quốc Việt Nam . ĐVQDĐ cũng phải nhận chịu những tổn thất không nhỏ. Trong khi đó một số đảng viên đă thóat được ra ng̣ai hải ngọai ở thời điểm 1975, một số khác vượt biên, đ̣an tụ gia đ́nh, ra đi theo chương tŕnh tỵ nạn chính trị vv … ĐVQDĐ đă tái tổ chức và tiếp tục họat động. Ngày nay nơi nào có cộng đồng Người Việt tỵ nạn là có cơ sở ĐVQDĐ. Từ những năm 1980, 1988, và nhất là đến đại hội Đảng đầu tiên ở hải ngọai 1995, ĐVQDĐ đă lớn mạnh không ngừng về cả phẩm và lượng. Với con đường, với đạo sống DÂN TÔC SINH TỒN soi sáng, với quyết tâm giành lại quê hương trong TỰ DO DÂN CHỦ PHÚ CƯỜNG. Cuộc chiến đấu của cả Quốc Dân chống lại bọn buôn dân bán nước Hà Nội đang đến hồi quyết liệt và quyết định. ĐVQDĐ quyết cùng ṭan dân chiến đấu cho đến ngày T̉AN THẮNG.

  • MỘT TỔ QUỐC VIỆT NAM QUANG VINH, HÙNG CƯỜNG

  • MỘT CẢNH ĐỜI THỊNH TRỊ ẤM NO- MINH CHÂU TRỜI ĐÔNG.

  • ĐVQDĐ QUYẾT LÀM TR̉N TRÁCH VỤ VỚI TỔ QUỐC – DÂN TỘC