Sunday, February 06, 2011                                                                  trang chính  ||    lưu trữ    ||   liên lạc

 

Tết đến, nghĩ về... BẢN HIẾN PHÁP ĐẦU TIÊN CỦA DÂN TỘC QUA BIỂU TƯỢNG CHIẾC BÁNH CHƯNG
Vơ Đại Tôn

  Quư vị nào thử tạm giam ḿnh trong một pḥng kín nhỏ không có ánh đèn, không ánh mặt trời, trần trụi cô đơn, mỗi ngày chỉ được ăn hai bữa với chén cơm pha nước muối, trong ṿng 1 tuần lễ, th́ có lẽ mới hiểu được phần nhỏ nào về sự thèm khát không khí gia đ́nh, hơi thở hạnh phúc và cuộc sống của con người - nhất là trong những dịp Tết đến. Tôi đă phải sống như vậy trong suốt 3.697 ngày đêm – 10 năm 1 tháng 17 ngày - chưa kể đến gần một trăm lần bị tra tấn dă man. Những năm đầu bị giam, tuy ngoại cảnh mỗi ngày như mọi ngày, nhưng khi biết Tết đến th́ ḷng tôi cũng xốn xang, gợi nhớ nhiều kỷ niệm riêng, thương về gia đ́nh bặt tin, hành tŕnh chưa trọn. Nhưng những năm sau, thân xác kiệt quệ v́ thiếu dinh dưỡng, đầu óc chỉ c̣n cố nghĩ đến cách sinh tồn để đối phó với hoàn cảnh đơn độc, tôi không c̣n mong nhớ ǵ về Tết. Tự tập luyện cho ḿnh cách sắp xếp vào kho “đông lạnh” trí óc những ǵ không là hiện thực. (Cũng như bây giờ, tôi tự “đông lạnh” vô nhiễm trước những xuyên tạc dèm pha của những kẻ ác tâm). Chỉ có hai chuyện vào dịp Tết trong tù tôi c̣n nhớ rơ. Liên quan đến việc giáo dục tuổi trẻ dưới chế độ cộng sản mà họ gọi là “trăm năm trồng người”, và việc cố gắng tồn tại dưới tận cùng đáy vực để nuôi hy vọng c̣n sống, tiếp tục cuộc hành tŕnh tâm nguyện.

Tết đầu tiên vào năm 1982 tại trại tù Thanh Liệt ngoại ô Hà Nội, (tôi bị bắt và bị chuyển từ Paksé (Lào) về giam tại đây vào cuối tháng 10.1981), tôi lạc loài ngay chính trên quê hương ḿnh là Việt Nam nói chung. Nh́n qua song sắt ô cửa nhỏ xà lim, tôi thấy một bé gái khoảng 4-5 tuổi chạy chơi qua lại. Tôi nhớ đến con tôi là Cu-Lỳ, hai mẹ con bơ vơ không biết sống ra sao tại Úc. Cháu gái đến gần ô cửa nh́n tôi, cười ngây thơ. Có lẽ là con của một cán bộ cai tù nào đó. Chiều nào cũng vậy, cháu đến “thăm” tôi, líu lo nói chuyện, và đưa mấy mẩu giấy báo vụn nhờ tôi xếp máy bay, tàu thủy, cười thật dễ thương. Ngày Tết, cháu cho tôi một cây kẹo gừng. Rồi tôi không c̣n gặp cháu nữa. Khi tôi đă ở tù 5 năm, cũng vào dịp Tết, tôi lại thấy một cô gái khoảng 10 tuổi đi qua pḥng giam. Đúng là cháu gái trước đây. Ḷng tôi nao nao và gọi cháu. Cô gái nh́n tôi không nói ǵ cả, bỏ đi. Tôi ngậm ngùi, cô đơn, nép sát đầu vào song sắt ô cửa, nh́n theo, cố t́m lại nụ cười bé thơ đă mất rồi.

Khi tôi ở tù đến năm thứ 10, ngẫu nhiên cũng vào dịp Tết, tôi lại thấy một thiếu nữ khoảng 15 tuổi đi qua pḥng tôi. Tôi đă bị nhốt riêng một xà lim suốt 10 năm, không chuyển pḥng, không được ra ngoài lao động, bắt đầu đứng không vững, và nếu có kiếng th́ có lẽ cũng không dám soi nh́n mặt mày ḿnh ra sao. Nh́n cô gái đă lớn, đi qua chầm chậm, tôi nhận rơ nét mặt không có nhiều thay đổi, tôi mừng quá gọi lớn: “Cháu ơi, c̣n nhớ ông không?”. Lúc ấy không có cán bộ bảo vệ đi tuần tra, có lẽ là dịp Tết nên tù được chút thong thả hơn. Bất ngờ, cô ta dừng lại, trừng mắt nh́n tôi và nói: “Câm mẹ cái mồm lại, đồ phản động, ngụy quân ngụy quyền!”. Rồi lạnh lùng bỏ đi. Tôi thực sự đau ḷng, ngỡ ngàng chẳng biết nói sao. Cũng là một cô gái, vào thế hệ con tôi, lúc 5 tuổi th́ vui cười ngây thơ, nhờ tôi xếp giấy làm đồ chơi, khi lên 10 tuổi th́ im lặng bỏ đi, và đến lúc thành thiếu nữ 15 tuổi th́ lại mắng vào mặt một ông tù già là “Câm mẹ cái mồm lại, đồ phản động!” Có lẽ cháu gái này không hiểu nghĩa của những chữ “phản động, ngụy quân ngụy quyền” là ǵ, nhưng lệnh trên đưa xuống bắt học thuộc ḷng từ trong lớp, nên cứ nói như máy. Nếu có ai đọc được bài luận văn của một học sinh trung học trong nước đă viết “Nguyễn Huệ là dũng sĩ diệt Mỹ cứu nước”, hoặc một bài khác “Thúy Kiều nhảy xuống sông Tiền Giang tự vẫn, được một cán bộ vớt lên và kết nạp cho vào Đảng ta”... th́ đừng lấy làm lạ và đừng cho là tôi “bôi bác chế độ”. Tôi đă được đọc nhiều bài viết như vậy từ trong nước gửi ra sau này. Chỉ có chế độ cộng sản mới “trồng người” như vậy, tiêu diệt nghĩa-t́nh giữa con người với nhau, và xuyên tạc Lịch Sử, Văn Học.
Thêm một chuyện Tết trong tù. Có nhiều người (có kẻ dè bĩu, có người “ngây thơ”) – chưa từng bị tù dưới chế độ cộng sản - lắc đầu không tin những ǵ anh em tù nhân chính trị chúng tôi kể hoặc viết lại, cho rằng anh em chúng tôi đă phịa thêm, cường điệu tả oán để làm động lực đấu tranh hoặc xin t́nh thương hại. Có đôi khi họ lại dửng dưng phê phán: “Nhục nhă và đói khổ như thế, tại sao không chết đi mà cố sống để làm ǵ?” Chúng tôi đă tự trả lời cho chính ḿnh: “Mẹ Việt Nam đâu có cần tất cả những đứa con yêu phải chết đi, phải cố sống để tiếp tục con đường đă chọn, và làm nhân chứng về một chế độ vô đạo nhất trong lịch sử Dân Tộc”.

 Vào dịp Tết năm 1985 trong tù, dù tôi đă quên tất cả hương vị về Tết, chung quanh tôi chẳng có ǵ đáng để gợi nhớ, nhưng đêm giao thừa năm này ḷng tôi bỗng dưng rộn ràng khi nghe có tiếng pháo lẹt đẹt nổ bên kia vách tường trại tù, xă Thanh Liệt, thuộc huyện Thanh Tŕ. (Trước năm 1975, tôi có quen thân với nhiều bạn từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, cho biết là huyện Thanh Tŕ đă nổi tiếng về sản xuất bánh cuốn. Nói đến “Bánh cuốn Thanh Tŕ” th́ ai cũng biết là ngon đặc biệt. Tiện đây, tôi xin viết thêm vài ḍng về hơn một triệu người đă dũng cảm ĺa quê cha đất tổ, di cư vào Nam. Đồng bào di cư là những chứng nhân sống về chế độ cộng sản bạo tàn tại miền Bắc, và hào khí chống cộng từ những địa danh Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm... đă được ghi vào lịch sử chống cộng của Dân Tộc với những nét vàng son, lẫm liệt, lưu truyền cho hậu thế. Không ai được quyền mạ lỵ làn sóng di cư anh hùng này, cũng như bây giờ không ai được quyền hạ nhục làn sóng di tản của đồng bào ta sau ngày quốc nạn 30.4.1975). Dịp Tết này có một số tù mới, dân đi học hoặc lao động từ Liên Xô, Đông Âu, trở về, mang theo hàng lậu bị bắt vào giam. Suốt ngày đêm đám tù này la lối om ṣm, kêu gọi nhau ơi ới từ pḥng này sang pḥng khác. Có thể đều là đám “c.o.c.c.” (con ông cháu cha) nên mới được đi “lao động quốc tế” hoặc “du sinh” để kiếm ăn, chẳng sợ cai tù, chỉ bị tạm giam vài ngày, lại c̣n được gia đ́nh thăm nuôi tiếp tế đầy đủ. Vào đêm Giao Thừa, có tiếng the thé vang lên, giọng “Hà Nội mới” thật khó nghe, phô trương đểu cáng: “Tiên sư bố nó, tiếp tế bánh chưng làm ǵ lắm thế. Mười mấy chiếc như thế này th́ ông làm sao ăn cho hết! Ông chỉ ăn nhân thịt bên trong cho vui, c̣n th́ vứt mẹ hết ra cống cho chuột ăn”. Tôi nằm nghe mà cồn cào cả ruột gan v́ đói, v́ lạnh, nuốt nước miếng ừng ực. Hoa cả mắt, tưởng chừng như thấy mấy cái bánh chưng đong đưa trước mặt. Vói tay nắm bắt, chỉ thộp được mấy con muỗi. Mấy ngày Tết này, có một cán bộ quản giáo biết tôi khéo tay và hội họa, nhờ tôi làm mấy loại hoa giả bằng giấy bạc bao thuốc lá để trang trí Tết. Tôi thường tự tạo ra nhiều “nghề” để kiếm thuốc lào hút. Thông thường, tôi dùng chút cơm để dán hoa giấy, nhưng dại ǵ, cơm tù c̣n không đủ ăn, hơi đâu mà phí phạm. Tôi nghĩ ngay đến nếp bánh chưng. Tôi nói với tên cán bộ là nếu có xôi nếp để dán hoa giấy th́ “cực kỳ tốt”, có tù nào dư thừa bánh chưng th́ lấy cho tôi một ít. Tên cán bộ nghe nói, trả lời ngay: “Thoải mái, thoải mái, tưởng ǵ chứ bánh chưng th́ thiếu ǵ, các buồng trong trại được tiếp tế nhiều lắm cơ”. Và tôi đă được một gói nếp bánh chưng to, ai đă ăn hết nhân đậu bên trong rồi. Tôi để dành một ít để dán hoa giấy, c̣n lại th́ đợi đến khuya mở gói bánh chưng c̣n thừa ra, gỡ sạch những lớp xôi c̣n dính chặt vào tờ giấy báo, cắn nhẹ từng miếng, ăn trong bóng tối lờ mờ, và ứa nước mắt. Hương vị Tết mọn trong tù. Tôi nhớ đến gia đ́nh vợ con bên Úc chẳng biết ra sao, thương tủi cho thân ḿnh, cô đơn quạnh quẽ giữa hai bờ tử-sinh. Bên kia xóm, nhà ai đang vặn to một băng nhạc duy nhất mà tôi được nghe đi nghe lại từ suốt mấy năm qua tiếng hát của Thanh Thúy với bài Nửa Đêm Ngoài Phố. “Buồn vào hồn không tên...”. “Nhạc vàng”, có lẽ phát ra từ nhà của tên cán bộ nào đó đă đem từ miền Nam ra như là “chiến lợi phẩm”. Tôi đặt lại lời ca, lẩm nhẩm hát một ḿnh, đón Tết tù. “Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm, nhai bánh chưng một ḿnh... ôi bánh chưng đời tù...”.

Tết năm đó, tôi có tạm đủ hương vị: bánh chưng thừa, nhạc “vàng” rè, hoa giấy làm bằng bao thuốc lá, và... có cả nước mắt cô đơn. Tôi đau ḷng trong hoàn cảnh cay nghiệt này, nhưng tự tha thứ cho ḿnh v́ đấy không phải là nỗi nhục lớn trong lẽ sinh tồn của một người tù bị biệt giam, không thẹn với lương tâm và chính khí. Cố sống để tiếp tục c̣n đường c̣n dang dở với mộng chưa tṛn. Dù sao, tôi cũng thấy “nhợn” trong ḷng, thương ḿnh và thương cả Dân Tộc đang bị đọa đày xuống tận cùng khổ nạn bởi một chế độ phi nhân. Càng thương lại càng t́m mọi cách cố tồn tại, miễn không làm những điều hèn hạ ô danh, để mong một ngày nếu c̣n sống sẽ tiếp tục đóng góp công sức và kinh nghiệm đời cùng Toàn Dân sớm quang phục quê hương. Miếng bánh chưng Tết trong tù này là một trong hàng trăm tư liệu tôi thêm vào hành trang hiện tại để tiếp bước đấu tranh.
Tôi vừa nhai miếng bánh chưng thừa vừa miên man nhớ về những ngày Tết xa xưa và tại hải ngoại. Lại nhớ đến những câu thơ tôi từng viết vội trong cuốn sổ tay mang theo trên các nẻo đường hành quân thuở c̣n binh lửa.

Tiếng thét Đống Đa hùng vọng
Thăng Long lồng lộng tinh kỳ.
Ô ḱa! ngựa hí voi đi
Dấu xưa hoàng sử c̣n ghi bây giờ.
V́ đâu hoa gấm thành Thơ
V́ ai xin hẹn dưới cờ tuốt gươm...

Trong bóng tối pḥng giam, tôi thấy hiện ra trước mắt những bữa cơm Tết được dọn ra với bóng dáng cha mẹ và anh chị em tôi đang quây quần trong một căn nhà nép ḿnh sau lũy tre xanh ven sông Thu Bồn. Âm hưởng của những mùa Xuân quê hương lại về với tôi. Theo phong tục cổ truyền, không có một gia đ́nh Việt Nam nào, dù đang sống lưu vong hoặc tại quê nhà, mà không có những bữa ăn với bánh chưng và dưa hành trong dịp Tết. Ngoại trừ những gia đ́nh quá cơ cực đói nghèo, và những kẻ lang thang “lạnh lùng nh́n thiên hạ đón Xuân sang”. Mơ về những chiếc bánh chưng xưa, trong bữa ăn hoặc được trưng bày tại các quầy thực phẩm trong siêu thị Việt Nam ở hải ngoại, tôi chợt thấy màu sắc quê hương đạm bạc qua vỏ bọc lá chuối xanh tương phản với cảnh tượng văn minh hào nhoáng và tráng lệ nơi xứ người. Chiếc bánh chưng đáng lẽ được đặt trên mâm gỗ trong một không gian phảng phất hương trầm ngày Tết, bây giờ lại được sắp xếp trong lồng kính sáng loáng, siêu thị máy lạnh, làm cho tôi có ư nghĩ không biết chiếc bánh chưng hay là ḿnh đang lạc loài đâu đây? Nhưng dù sao, ḷng tôi không khỏi rộn ràng nhớ đến biết bao kỷ niệm đă qua trong đời, mỗi độ Xuân về Tết đến, và ḍng suy tưởng lại đi xa hơn, về với cội nguồn Dân Tộc.

Tôi không có đủ khả năng và kiến thức để lạm bàn sâu xa về Văn Hiến Dân Tộc, nhưng cũng đă góp nhặt được đôi điều suy luận cao quư từ các bậc Cha Ông, đặc biệt về biểu tượng chiếc bánh chưng cổ truyền. Xin ghi nhớ với tấc ḷng hoài niệm của một con dân luôn hướng về Quốc Tổ, dù đang sống trong tận cùng đáy vực lao tù này.

Ngày nay, với ḍng thời gian cuồn cuộn chảy theo mệnh nước nổi trôi, có lẽ vẫn c̣n một số người cùng thế hệ với tôi, và nhất là đối với Tuổi Trẻ Thời Đại, không hề biết đến biểu tượng tinh thần của Dân Tộc gói trọn trong chiếc bánh chưng. Được dọn lên th́ ăn, ăn nhiều th́ chán, và trong các sinh hoạt ngày Tết của cộng đồng cũng như của gia đ́nh tại hải ngoại, đi đâu cũng thấy bánh chưng. Ít người tự đặt cho ḿnh câu hỏi: “Tại sao phải có bánh chưng trong những ngày Tết ?”, và kể từ ngày nền Văn Hiến Dân Tộc thành nguồn văn tự đến nay, đă qua hơn bốn ngh́n năm rồi, biểu tượng tinh thần của ṇi giống Lạc Việt vẫn c̣n thể hiện qua nhiều h́nh thức không hề bị mai một với thời gian. Nghĩa T́nh vẫn c̣n tiềm tàng đâu đó, mặc dù tại hải ngoại cuộc sống vật chất đang cuốn xoay chúng ta vào hướng không phải phương Đông và tại quê nhà th́ chế độ cộng sản đang cố t́nh hủy diệt cội nguồn văn hóa Dân Tộc.

Trước hết, chiếc bánh chưng được gói theo h́nh VUÔNG, tượng trưng cho h́nh tượng của ĐẤT. Đất ở đây có nghĩa là mảnh Đất từ chốn chôn nhau cắt rốn, mẫu ruộng, thửa vườn, chứ không phải là quả đất h́nh tṛn mà khoa học nhân loại đă chứng minh. H́nh VUÔNG c̣n mang ư nghĩa của sự VUÔNG TR̉N thủy chung, của Ḷng Người đối với nhau giữa nhân quần xă hội, và trên hết, đối với Quê Cha Đất Tổ. Lá chuối màu XANH tượng trưng cho màu HY VỌNG, một mùa Xuân thanh khiết. Những sợi dây cột bằng lạt tre, nói lên nghĩa RƯỜNG CỘT bảo vệ non sông qua lũy tre làng bao bọc Ḷng Người. Những hạt nếp màu TRẮNG, thực phẩm nuôi sống giống ṇi như lúa gạo, trong tinh thần trong sáng, keo sơn gắn bó với nhau, không gợn màu Đen của Ác Nghiệp, của ḷng người vốn dĩ đầy rẫy Tham Sân Si. Những hạt đậu xanh đă được đăi vỏ thành màu VÀNG làm nhân ở giữa chiếc bánh là màu của H̉A B̀NH NHÂN ÁI, và những lát thịt mỡ tượng trưng cho niềm mơ ước về một cuộc sống sung túc, thịnh vượng. Nói sao cho cùng về ư nghĩa cao thâm của nền Văn Hiến Lạc Việt, những ẩn dụ tinh thần mà Ông Cha chúng ta đă để lại cho con cháu ngh́n sau trong nghĩa vụ bảo tồn và phát huy truyền thống Dân Tộc?

Ngoài các ư nghĩa về màu sắc và h́nh tượng, chúng ta có thể t́m hiểu thêm những ẩn dụ tinh thần khác, không phải do các thế hệ hậu sinh cưỡng đặt hoặc suy tưởng thêm mà chính là do sự t́m ṭi nghiên cứu của các bậc thức giả về cội nguồn Dân Tộc. Ví dụ như việc cắt bánh chưng chẳng hạn. Thời nay, người ta thường cắt bằng dao, nhưng chính ra, theo đúng cách thức cổ truyền th́ phải cắt bằng chính những sợi dây lạt tre gói bánh như các bà mẹ già thường làm một cách thận trọng và đều tay, chia các phần bánh bằng nhau. Theo tôi nghĩ, có lẽ các Cụ ngày xưa kiêng không muốn dùng dao để cắt bánh v́ nỡ nào dùng dao để cắt chính miếng ĐẤT đă nuôi dưỡng ḿnh, nỡ nào cắt ruột cắt gan mà không đau ḷng? Lại c̣n nữa, các phần bánh chia đều nhau mang thêm ư nghĩa của sự CÔNG BẰNG, phân chia điền thổ cho dân. Phần ngoài là ĐẤT TƯ HỮU, gọi là Tư Điền, bao quanh phần giữa là ĐẤT CÔNG HỮU, gọi là Công Thổ. Mọi người dân đều có đất riêng để canh tác mưu sinh, c̣n phần Công Thổ là để cho Làng Xă phụ trách cai quản, mọi người chung nhau cày cấy, lấy lợi tức mà thờ cúng Tổ Tiên chung, lo việc cho dân cho nước, tựa hồ như một loại thuế mà mọi người đều đồng ḷng đóng góp để chung lo việc an sinh xă hội với nhau, cùng nhau đùm bọc sau lũy tre làng. Sau này, qua nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều chế độ đă ban hành chính sách Cải Cách Điền Địa, Người Cày Có Ruộng, Tư Công Hữu Lợi, đều do ư nghĩa cao thâm phát xuất từ việc phân chia từng miếng bánh chưng đều nhau. Đau ḷng thay, ngày nay trên quê hương chúng ta, tuy cũng có những ngày rộn rịp đón chào năm mới nhưng chế độ cai trị chỉ chuyên về lư thuyết giáo điều chứ trên thực tế th́ người dân ngày càng Vô Sản c̣n tầng lớp thống trị th́ tận hưởng của công. Tinh thần Công Bằng giữa Tư Điền và Công Thổ lưu truyền từ biểu tượng chiếc bánh chưng đă không c̣n nữa. Đấy là chưa kể tới thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất tang thương nhất của Dân Tộc mà người cộng sản đă phóng tay, rập khuôn theo Tàu Cộng, giết hại biết bao dân làng vô tội, triệt tiêu mọi công bằng xă hội sau lũy tre xanh, đảo ngược mọi tôn tri trật tự truyền thống về đạo đức của xóm làng, nền móng của quê hương đất nước.

Tôi nằm trong xà lim tăm tối trong đêm Giao Thừa với tâm trạng nhớ nước, thương nhà và thương chính ḿnh, như con chim lạc bầy đang quay đầu về núi, t́m lại những mùa Xuân Dân Tộc đă qua. Tôi đă suy tưởng trong đêm cô lạnh đến bản Hiến Pháp đầu tiên của Dân Tộc qua biểu tượng chiếc bánh chưng, khi tôi đang ứa nước mắt thầm nhai mẩu bánh chưng thừa để cố sinh tồn. Màu sắc thanh b́nh hạnh phúc, phú cường an lạc, Tư-Công đồng đều, đùm bọc nhau mà sống trong xă hội cùng chung ṇi giống với Nghĩa Vuông Tṛn Chung Thủy, keo sơn gắn bó để bảo tồn nền Văn Hiến muôn đời của Dân Tộc. Đấy là lời căn dặn đến từ Quốc Tổ, đấy là bản Hiến Pháp bất thành văn nhưng đậm đà t́nh tự Dân Tộc và Lẽ Công Bằng trong mọi cuộc sống của con người măi đến hôm nay và ngày mai con cháu. Nhưng chính con người đă bỏ quên và chính con người cộng sản đă cố t́nh hủy diệt tinh thần cao thượng này. Tôi lại chợt nhớ đến một trang huyền sử với lời dặn ḍ của Tổ Lạc Long Quân nói cùng các con khi nào gặp cơn nguy biến th́ cứ gọi “Bố ơi, Bố đi đằng nào, xin hăy về cứu chúng con!”, tức th́ uy linh cảm ứng, Cha Rồng sẽ hiện về ngay. Giờ đây, trong nỗi niềm suy tưởng về tinh thần mấy ngh́n năm Văn Hiến của Dân Tộc qua chiếc bánh chưng ngày Tết, trong sự lo sợ về hiểm họa diệt vong của giống ṇi qua suy đồi đạo lư và bao cảnh bất công, qua sự thần phục quỳ lụy của chế độ cộng sản trước bọn bành trướng phương Bắc, chúng ta nên cùng nhau khấn nguyện “Xin Bố hăy về cứu chúng con”, sau khi đă tṛn tâm tận lực trong nghĩa vụ làm người yêu Nước chân chính.

Vơ Đại Tôn
(Úc Châu)