
Friday, July 22, 2011 trang ch�nh || lưu trữ || li�n lạc
|
Với nhan đề như tr�n, t�i muốn n�i đến ba điều: một, d�n chủ l� kết quả của qu� tr�nh ph�t triển l�u d�i của lịch sử; hai, d�n chủ l� kết quả của những nỗ lực kh�ng ngừng nghỉ của nhiều người v� nhiều thế hệ; v� ba, d�n chủ l� kết quả của việc học tập.
Mệnh đề thứ nhất tương đối dễ hiểu v� dễ thấy. Tuy kh�i niệm �d�n chủ� đ� ra đời ở Hy Lạp c�ch đ�y đ� 2500 năm, nhưng, thứ nhất, đ� chỉ l� dạng ph�i thai của d�n chủ với nhiều hạn chế nhất định; v� thứ hai, c�i dạng ph�i thai ấy đ� bị b�p chết một c�ch tức tưởi suốt cả hai ng�n năm sau đ�, trong suốt thời kỳ trung cổ v� Trung Đại, khi mọi quyền lực đều nằm hẳn trong tay của giới tu sĩ hoặc giới qu� tộc. H�nh thức d�n chủ m� ch�ng ta đang đề cập chỉ mới xuất hiện từ hơn một trăm năm nay, v� c�ng ng�y c�ng ho�n thiện dần. Mệnh đề thứ hai cũng r�: Mọi nền d�n chủ đều ra đời sau những cuộc tranh đấu dai dẳng, c� khi c�n đẫm m�u. D�n chủ kh�ng phải l� m�n qu� cho kh�ng biếu kh�ng của ai cả. Đ� l� thứ m� người ta phải gi�nh giật v� đ�nh đổi bằng cả xương m�u của ch�nh m�nh. Tuy nhi�n, trong b�i n�y, t�i chỉ muốn tập trung v�o mệnh đề thứ ba: D�n chủ l� điều người ta phải học tập. Trước hết, cần lưu �: d�n chủ kh�ng phải chỉ l� vấn đề cơ chế. Kh�ng phải cứ c� bầu cử, c� Quốc Hội, c� luật ph�p, c� truyền th�ng, d� l� truyền th�ng tự do, l� c� d�n chủ. B�n cạnh cơ chế, c� khi c�n quan trọng hơn cơ chế, l� con người. D� cơ chế c� ho�n hảo đến mấy nhưng thiếu những con người c� � thức d�n chủ th� c�i cơ chế ấy cũng sẽ bị v� hiệu h�a v� kh�ng sớm th� muộn thế n�o cũng bị sụp đổ. L� do l�: một trong những điều kiện quan trọng của cơ chế d�n chủ l� sự tham gia của d�n ch�ng. Tham gia bằng nhiều c�ch v� với nhiều mức độ kh�c nhau, từ việc bầu cử đến việc ứng cử, từ việc g�p � đến việc sinh hoạt, v.v� Thiếu � thức d�n chủ, những sự tham gia ấy nhất định sẽ bị hạn chế v� c� nguy cơ bị lệch hướng: thay v� ph�t huy d�n chủ, ch�ng lại củng cố độc t�i. Nhưng � thức d�n chủ kh�ng phải l� thứ bẩm sinh. N� kh�ng được sinh ra. N� phải được thụ đắc. Thụ đắc trong hai m�i trường ch�nh: gi�o dục v� x� hội. Trong gi�o dục, ngo�i kiến thức, hai mục ti�u quan trọng cần được nhấn mạnh l� việc đ�o luyện cho học sinh v� sinh vi�n khả năng suy nghĩ một c�ch độc lập v� s�ng tạo. Thiếu hai khả năng ấy, người ta chỉ l� những con vẹt, thậm ch�, những c�ng cụ. Sự độc lập phải được hiểu l� độc lập từ ch�nh thầy c� gi�o, từ s�ch gi�o khoa, v� xa hơn nhưng cũng thiết yếu hơn, độc lập từ c�c gi�o điều. Khi x� hội c�n nặng tư tưởng gi�o điều, cứ mở miệng ra l� �Tử viết� hoặc �Marx n�i�, �L�nin n�i� hay �B�c Hồ n�i�, trẻ em, v� từ đ�, d�n ch�ng kh�ng thể c� sự độc lập trong tư duy được. M� đ� kh�ng c� độc lập th� kh�ng thể s�ng tạo. Nền tảng của độc lập v� s�ng tạo, do đ�, l� sự tin tưởng v�o sự thật v� sự tự tin l� ch�nh m�nh, bằng những nỗ lực ri�ng của m�nh, c� thể tiếp cận được sự thật ấy. C� được niềm tin tưởng v� sự tự tin ấy, người ta mới c� thể h�nh xử như một con người tự do. C� h�nh xử như những con người tự do, người ta mới c� d�n chủ. Nhưng nh� trường kh�ng, chưa đủ. � thức d�n chủ c�n cần phải được đ�o luyện trong m�i trường x� hội nữa. Những g� được học trong nh� trường cần phải được thực tập ngay trong đời sống h�ng ng�y, ở đ�, người ta được tho�t ra khỏi �p lực của tập qu�n v� gi�o điều v� được c� quyền ph�t biểu những � kiến ri�ng của m�nh d� ch�ng đi ngược lại với đ�m đ�ng v� với quyền lực. Việc h�nh xử như một con người tự do � điều kiện của d�n chủ � do đ�, chỉ c� thể thực hiện được trong m�i trường tự do. Nhận thức được tầm quan trọng của gi�o dục v� x� hội trong việc đ�o luyện � thức cũng như th�i quen d�n chủ sẽ dẫn đến hệ luận n�y: Để x�y dựng một nền d�n chủ tại Việt Nam, người ta phải bắt đầu, trước hết, từ hai điểm: gi�o dục v� x� hội. Khi gi�o dục v� x� hội chưa thay đổi, sự thay đổi về cơ cấu quyền lực, nếu c�, kh�ng c� g� bảo đảm sẽ dẫn đến d�n chủ cả. C� khi đ� chỉ l� thay thế một hệ thống độc t�i n�y bằng một hệ thống độc t�i kh�c. Nhưng nh�n cả hai phương diện gi�o dục v� x� hội ở Việt Nam, li�n quan đến vấn đề d�n chủ, ch�ng ta kh�ng thể kh�ng bi quan. Nền gi�o dục Việt Nam, cho đến nay, sau bao nhi�u lời hứa hẹn cải c�ch, vẫn kh�ng hề thay đổi theo chiều hướng ph�t huy tinh thần độc lập v� s�ng tạo. Học sinh vẫn phải nhồi nh�t kiến thức để trả b�i. Thầy c� gi�o vẫn tự đ�ng vai tr� trung t�m ph�n phối kiến thức. Hệ thống thi cử vẫn dựa tr�n việc kiểm tra k� ức. Việc nhồi nh�t ấy dẫn đến hệ quả kh�c: sự giả dối. Trẻ th� giả dối trong c�ch học tủ v� học vẹt. Lớn th� giả dối trong việc mua b�n bằng giả v� bằng dỏm. Khi giả dối l�n ng�i, mọi bảng gi� trị, từ truyền thống đến hiện đại, đều bị đảo lộn. Kh�ng c� nền d�n chủ n�o c� thể được x�y dựng tr�n những sự đảo lộn như vậy cả. Sinh hoạt x� hội Việt Nam hiện nay cũng kh�ng phải l� mảnh đất tốt để nu�i dưỡng d�n chủ. Luật ph�p kh�ng r� r�ng, để sống c�n, người ta phải m�nh mung. Xin trường học cho con c�i: m�nh mung. Xin việc l�m: m�nh mung. Để tăng lương hoặc tăng chức: m�nh mung. Ở đ�u cũng c� v� cũng cần c� m�nh mung cả. Th�i m�nh mung ấy, một mặt, giết chết luật ph�p, mặt kh�c, giết chết cả niềm hy vọng v�o d�n chủ. Để thay đổi m�i trường x� hội như thế, người ta kh�ng chỉ cần củng cố hệ thống ph�p luật như một số người đ� n�i; người ta cần phải, quan trọng v� khẩn thiết hơn, x�y dựng cho được một x� hội d�n sự l�nh mạnh. Nhưng vấn đề x� hội d�n sự l� một vấn đề rộng lớn v� phức tạp. Ch�ng ta sẽ b�n sau. Theo blog Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
|