Ngày 30
tháng 4,
ngoài tất cả
ư nghĩa mà
chúng ta đă
biết, c̣n là
ngày để mỗi
người nh́n
lại chính
ḿnh, ngày
để mỗi chúng
ta tự hỏi
ḿnh đă làm
ǵ cho đất
nước, và
đang đứng
đâu trong
cuộc vận
hành của
lịch sử hôm
nay. Mỗi
người Việt
Nam có hoàn
cảnh sống
khác nhau,
quá khứ khác
nhau, tôn
giáo khác
nhau và mang
trên thân
thể những
thương tích
khác nhau,
nhưng chỉ có
một đất nước
để cùng lo
gánh vác.
Đất nước
phải vượt
qua những hố
thẳm đói
nghèo lạc
hậu và đi
lên cùng
nhân loại.
Không ai có
quyền bắt
đất nước
phải đau nỗi
đau của ḿnh
hay bắt đất
nước phải đi
ngược chiều
kim lịch sử
như ḿnh
đang đi lùi
dần vào quá
khứ. Sức
mạnh của dân
tộc Việt Nam
không nằm
trong tay
thiểu số
lănh đạo
CSVN. Tương
lai dân tộc
không nằm
trong tay
thiểu số
lănh đạo
CSVN. Sinh
mệnh dân tộc
Việt Nam do
chính nhân
dân Việt Nam
quyết định.
Và do đó,
con đường để
đến một điểm
hẹn lịch sử
huy hoàng
cho con cháu,
chính là con
đường dân
tộc và không
có một con
đường nào
khác...
*
Những ngày
c̣n nhỏ, tôi
bị ám ảnh
bởi câu hỏi
tự ḿnh đặt
ra “Tại sao
chiến tranh
diễn ra tại
Việt Nam mà
không phải
tại một quốc
gia nào khác?”
Tôi lớn lên
ở Đà Nẵng.
Đường phố
quê hương
tôi trong
khoảng thời
gian từ 1968
đến 1972 có
rất nhiều
lính Mỹ.
Những chiến
tàu nhập
cảng Tiên Sa
chở đầy
chiến xa và
súng đạn
mang nhăn
“Made in
USA”. Những
đoàn xe vận
tải hiệu
Sealand, RMK
gần như chạy
suốt ngày
đêm từ nơi
dỡ hàng
ngoài bờ
biển đến các
kho quân sự
chung quanh
Đà Nẵng.
Tiếng gầm
thét của các
phi cơ chiến
đấu có đôi
cánh gắn đầy
bom, lát nữa,
sẽ được ném
xuống một
nơi nào đó
trên mảnh
đất Việt
Nam. Những
câu lạc bộ,
được gọi là
“hộp đêm”,
mọc đầy hai
bên bờ sông
Hàn. Mỹ đen,
Mỹ trắng chở
hàng quân
tiếp vụ đi
bán dọc chợ
Cồn, chợ
Vườn Hoa.
Phía trước ṭa thị chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có ṇng súng cao, những khẩu pháo ṇng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm c̣n có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước ṭa thị chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nh́n nhăn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là hàng của Trung Quốc và Liên Xô.
Nh́n viên
đạn của Nga
và Tàu, tôi
nghĩ đến
trái tim của
người lính
trẻ miền
Nam, giống
như khi nh́n
chiếc chiến
đấu cơ của
Mỹ cất cánh
tôi chợt
nghĩ đến các
anh lính từ
miền Bắc xấu
số đang di
chuyển bên
kia sông Thu
Bồn. Vũ khí
là của các
đế quốc.
Không có
khẩu súng
nào chế tạo
ở miền Nam
hay miền Bắc.
Các bà mẹ
Việt Nam chỉ
chế tạo được
những đứa
con và đóng
góp phần
xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu v́ nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác ǵ nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết v́ phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những lính miền Nam c̣n sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong ḥa b́nh để xây đắp lại mảnh đất họ đă “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua quá nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.
Dân chủ
không phải
là lô độc
đắc rơi vào
trong túi
của người
dân miền Nam
mà phải trải
bằng một giá
rất đắc.
Tham nhũng,
lạm quyền,
ám sát, đảo
chánh diễn
ra trong
nhiều năm
sau 1960. Có
một dạo, tấm
h́nh của vị
“nguyên thủ
quốc gia”
chưa đem ra
khỏi nhà in
đất nước đă
có một
“nguyên thủ
quốc gia”
khác. Nhưng
đó là chuyện
của chính
quyền và
nhân dân
miền Nam
không dính
líu ǵ đến
đảng Cộng
Sản miền Bắc.
Dân chủ ở
miền Nam
không phải
là sản phẩm
của Mỹ được
đóng thùng
từ
Washington
DC gởi qua
nhưng là hạt
giống do
Phan Chu
Trinh, Bùi
Quang Chiêu,
Nguyễn Phan
Long, Phan
Văn Trường,
Nguyễn An
Ninh và rất
nhiều nhà
cách mạng
miền Nam
khác gieo
xuống hàng
nửa thế kỷ
trước đă mọc
và lớn lên
trong mưa
băo. Không
chỉ miền Nam
Việt Nam mà
ở đâu cũng
vậy. Nam Hàn,
Ấn Độ, Thổ
Nhĩ Kỳ, Phi
Luật Tân và
nhiều quốc
gia khác,
dân chủ đă
phải trải
qua con
đường máu
nhuộm trước
khi đơm bông
kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết v́ viên thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm bị giết ở Quảng Ngăi đă uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi kư “Măi măi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đă uống viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngă Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đă uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc. Không biết th́ không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời thanh niên xung phong nhưng chị may mắn c̣n sống để nhắc cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ v́ nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng. Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN chiến tranh đă xảy ra bởi v́ “Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đă nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”
Không ai h́nh dung “thuộc địa kiểu mới” h́nh dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rơ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn từng là đế quốc, đă nằm trong ṿng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ư, Anh, Ḥa Lan v.v... trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà c̣n bằng cả sức người để xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lănh đạo quốc gia biết mở mắt nh́n xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy ḷng Mỹ, lănh đạo Thổ đă t́nh nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đă chết và bị thương trong ba năm chiến tranh. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái vơ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất vơ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới với Tổng Sản Lượng Nội Địa năm 2011 lên đến 5855 tỉ đô la nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc pḥng chỉ v́ Nhật dựa vào khả năng quốc pḥng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực dân áp bức, một giới lănh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.
Ngoại trừ các lănh đạo Cộng Sản, trên thế giới chưa có một giới lănh đạo thể hiện ḷng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và “ḥa hợp dân tộc”.
Cũng trong
tài liệu
chính thức
của đảng,
ngay cả
trước khi kư
hiệp định
Geneve và
khi Việt Nam
chưa có một
dấu chân
người lính
Mỹ nào,
hội nghị lần
thứ sáu của
Trung ương
Đảng CSVN
từ ngày 15
đến 17 tháng
7 năm 1954,
Hồ Chí Minh
và bộ chính
trị đảng
CSVN đă
nghĩ đến
chuyện đánh
Mỹ
“Hiện nay đế
quốc Mỹ là
kẻ thù chính
của nhân dân
thế giới và
nó đang trở
thành kẻ thù
chính và
trực tiếp
của nhân dân
Đông Dương,
cho nên mọi
việc của ta
đều nhằm
chống đế
quốc Mỹ".
Vào thời
điểm trước
1954, dân
tộc Việt Nam
thật sự có
một mối thù
không đội
trời chung
với Mỹ sâu
đến thế sao
hay giới
lănh đạo
CSVN chỉ vẽ
h́nh ảnh một
“đế quốc Mỹ
thâm độc đầu
sỏ” như một
lư do để
chiếm toàn
bộ Việt Nam
bằng vơ lực,
và cùng lúc
để phụ họa
theo quan
điểm chống
Mỹ điên
cuồng của
chủ nô Mao
Trạch Đông
sau cuộc
chiến Triều
Tiên?
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối cùng đă đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đă nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lănh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ tŕ năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rơ: "Vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xă hội chủ nghĩa.”
Mới đây,
Nguyễn Phú
Trọng, Tổng
bí thư đảng
CSVN, trong
chuyến viếng
thăm Cu Ba,
cũng lần nữa
khẳng định
“Ngay khi
mới ra đời
và trong
suốt quá
tŕnh đấu
tranh cách
mạng, Đảng
Cộng sản
Việt Nam
luôn luôn
khẳng định:
chủ nghĩa xă
hội là mục
tiêu, lư
tưởng của
Đảng Cộng
sản và nhân
dân Việt
Nam; đi lên
chủ nghĩa xă
hội là yêu
cầu khách
quan, là con
đường tất
yếu của cách
mạng Việt
Nam.... Vào
những năm
cuối thế kỷ
XX, mặc dù
trên thế
giới chủ
nghĩa xă hội
hiện thực đă
bị đổ vỡ một
mảng lớn, hệ
thống các
nước xă hội
chủ nghĩa
không c̣n,
phong trào
xă hội chủ
nghĩa đang
trong giai
đoạn khủng
hoảng, thoái
trào, gặp
rất nhiều
khó khăn,
Đảng Cộng
sản Việt Nam
vẫn tiếp tục
khẳng định:
“Đảng và
nhân dân ta
quyết tâm
xây dựng đất
nước Việt
Nam theo con
đường xă hội
chủ nghĩa
trên nền
tảng chủ
nghĩa Mác –
Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí
Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hănh diện. Nhờ tài lănh đạo mà đảng CSVN đă tồn tại dù cả một hệ thống xă hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đă phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt kinh tế đă phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được duy tŕ mà c̣n củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát bài ḥa hợp ḥa giải thắm đượm t́nh dân tộc, bên trong, các chính sách của Đảng vẫn luôn kiên tŕ với mục tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt tiêu một cách tàn nhẫn.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy mà cả các lănh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm chỉnh thực thi các nguyên tắc lănh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề ra. Điều đó giải thích lư do giọng điệu của những cựu lănh đạo Cộng Sản như Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so với thời c̣n trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ v́ họ đă trở về với vị trí một con người b́nh thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi c̣n tại chức.
Giới lănh
đạo Cộng Sản
được trui
rèn trong
tranh đấu,
được huấn
luyện chính
trị từ cấp
đội, cấp
đoàn trước
khi giữ các
vị trí then
chốt trong
đảng và nhà
nước CS. Họ
nắm vững tâm
lư và vận
dụng một
cách khéo
léo tâm lư
quần chúng
để phục vụ
cho các
chính sách
của đảng
trong từng
thời kỳ. Sau
biến cố
Thiên An Môn,
để đánh lạc
hướng cuộc
đấu tranh
đ̣i dân chủ
của thanh
niên sinh
viên, nhà
cầm quyền
Cộng Sản
Trung Quốc
khai thác
ḷng căm thù
chính sách
quân phiệt
của Nhật đă
xảy ra từ
thế kỷ trước.
Lợi dụng
việc Bộ Giáo
dục Nhật bản
liệt kê biến
cố tàn sát
Nam Kinh như
một tai nạn
trong sách
giáo khoa,
nhà cầm
quyền Trung
Quốc đă
khuyến khích
hàng chục
ngàn thanh
niên sinh
viên Trung
Quốc biểu
t́nh suốt 3
tuần lễ
trước ṭa
đại sứ Nhật.
Việt Nam
cũng thế.
Trong chiến
tranh biên
giới 1979,
các lănh đạo
CSVN đă lần
nữa sử dụng
thành công
viên thuốc
độc bọc
đường “bảo
vệ tổ quốc”.
Máu của hàng
vạn thanh
niên Việt
Nam đổ xuống
dọc biên
giới Việt
Trung phát
xuất từ t́nh
yêu quê
hương trong
sáng và đáng
được tôn
vinh, tuy
nhiên, nếu
dừng lại một
phút để hỏi,
họ thật sự
chết v́ tổ
quốc hay chỉ
để trả nợ
xương máu
giùm cho
đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lănh đạo CSVN đưa ra thực chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lư do khác để đánh miền Nam.
Đảng CSVN là
nguyên nhân
khiến cho
nhiều triệu
người Việt
vô tội ở hai
miền đă phải
chết một
cách oan
uổng, bao
nhiêu thế hệ
bị suy vong,
bao nhiêu
tài nguyên
bị tàn phá
và quan
trọng nhất,
chiếc c̣ng
Trung Quốc
mà đảng
thông đồng
để đeo trên
cổ dân tộc
Việt Nam mỗi
ngày ăn sâu
vào da thịt
nhưng không
biết làm sao
tháo gỡ
xuống đây.
Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đă tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ v́ Việt Nam có đảng Cộng Sản.
Ngoại trừ
các em, các
cháu bị nhào
nặn trong
nền giáo dục
ngu dân một
chiều chưa
có dịp tiếp
xúc với các
nguồn thông
tin khách
quan khoa
học, nếu hôm
nay, những
người có học,
biết nhận
thức mà c̣n
nghĩ rằng
cuộc chiến
kết thúc vào
ngày 30
tháng 4 năm
1975 là cuộc
chiến “chống
Mỹ cứu nước”,
những kẻ đó
hoặc bị tẩy
năo hoàn
toàn hoặc
biết ḿnh
sai nhưng tự
dối ḷng để
tiếp tục
sống cho hết
một kiếp
người.
Cuộc đấu tranh v́ tự do dân chủ đất nước hiện nay, do đó, c̣n rất khó khăn, đôi gánh non sông c̣n rất nặng và hành tŕnh tự do c̣n khá xa xôi.
Sau 37 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Vơ Văn Kiệt nói, nếu chưa qua đời, hôm nay vẫn c̣n buồn.
Nhưng người
buồn không
phải chỉ từ
phía những
người lính
Việt Nam
Cộng Ḥa bị
buộc buông
súng, từ
phía nhân
dân miền Nam
bị mất tự do
mà c̣n là
những người
miền Bắc, cả
những người
trong đảng
CS đă biết
ra sự thật,
biết ḿnh bị
lừa gạt,
biết ḿnh đă
dâng hiến cả
một cuộc đời
trai trẻ cho
một chủ
nghĩa độc
tài, ngoại
lai, vong
bản.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những ḍng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn c̣n nguyên vẹn.
Như lịch sử đă chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lănh thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ư nghĩa mà chúng ta đă biết, c̣n là ngày để mỗi chúng ta nh́n lại chính ḿnh, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi ḿnh đă làm ǵ cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của ḿnh hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như ḿnh đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lănh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lănh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.
Ba mươi bảy năm là một quảng đường dài. Chúng ta đă hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải v́ thế mà không c̣n cơ hội. Cơ hội vẫn c̣n đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vở, c̣n biết nhận ra nhau, c̣n biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
Trần Trung Đạo