Wednesday, April 20, 2011                             trang chính  ||    lưu trữ    ||   liên lạc

 

THỂ THỨC BẦU CỬ TRONG HIẾN PHÁP DÂN CHỦ

                                                                                                                                  NGUYỄN HỌC TẬP

Sau khi xác định thể chế " Cộng Hoà Liên Bang, Dân Chủ Và Xă Hội " ở đoạn 1, điều 20,  Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức nói lên đặc tính Dân Chủ của Quốc Gia và đưa ra chỉ thị phương thức thực thi Dân Chủ ở đoạn kế tiếp:

- " Mọi quyền lực Quốc Gia đều phát xuất từ dân chúng. Quyền lực Quốc Gia được dân chúng  hành xử qua các cuộc đầu phiếu, trưng cầu dân ư và qua các cơ quan chuyên biệt lập pháp, hành pháp và tư pháp" ( Điều 20, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức, CHLBD). 

Điều vừa kể cho thấy các cuộc đầu phiếu, trưng cầu dân ư là những động tác nguyên thủy khởi đầu

- để người dân hành xử " quyền tối thượng Quốc Gia thuộc về dân" hay " mọi quyền lực Quốc Gia đều phát xuất từ dân chúng " của ḿnh,

- để tạo ra các " cơ quan chuyên biệt lập pháp, hành pháp và tư pháp ",

- cũng như để định hướng và kiểm soát sao cho quyền lực Quốc Gia được hành xử theo chính hướng, lư tưởng dân chủ được Hiến Pháp xác định, hiệu năng và không thiên vi bè phái.

Nêu lên những tư tưởng vừa kể, chúng ta thấy được tầm quan trọng của động tác bầu cử.

Luật lệ để bảo đảm cho tiếng nói b́nh đẳng và dân chủ của người dân trong dịp bầu cử, chúng ta đă có dịp bàn đến trong bài LUẬT BẦU CỬ CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC.

Qua chủ đề của bài đang viết, THỂ THỨC BẦU CỬ, chúng ta muốn t́m xem thể thức nào phải được áp dụng, để cho người dân được tự do cầm lá phiếu của ḿnh, bầu cho những ai mà ḿnh tự do và ư thức được có cách suy tư và hành xử quyền lực Quốc Gia theo phương thức dân chủ, hợp với suy nghĩ và xác tín của ḿnh.

Thể thức chính đáng phải có để người dân tự do chọn người thay ḿnh hành xử quyền lực Quốc Gia, trong tinh thần " mọi quyền lực Quốc Gia phát xuất từ dân chúng " rất quan trọng, nếu không, người dân chỉ là những con múa rối của thế thức " Đảng cử, dân bầu " và " làm mọi cho Đảng", hơn là phục vụ v́ lợi ích của Đất Nước.

Thể thức bầu cử phải có như vừa kể, được Hiến Pháp xác định từ các cuộc bầu cử trung ương, ở tầm vóc Liên Bang (Bund), cũng như địa phương, các Tiểu Bang ( Laender).

Đối với cuộc bầu cử ở Liên Bang:

- " Các nghị viên của Hạ Viện ( Bundestag) được tuyển chọn bằng các cuộc đầu phiếu phổ thông, trực tiếp, tự do, b́nh đẳng và kín". ( Điều 38, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 CHLBD).

Ở các cấp địa phương:

- " Ở các Tiểu Bang, các Vùng và Xă Ấp, dân chúng tuyển chọn thành phần đại diện từ các cuộc bầu cử phổ thông, trực tiếp, tự do, b́nh đẳng và kín" ( Điều 28, đoạn , id.).

Qua những ǵ Hiến Pháp 1949 CHLBD xác định, chúng ta thấy những đặc tính phải có để bảo đảm cho cuộc bầu cử có tính cách dân chủ, đó là những đặc tính

" phổ thông, trực tiếp, tự do, b́nh đẳng và kín".

A - Phổ thông.

Trước hết đặc tính phổ thông của Hiến Pháp 1949 CHLBD được Hiến Pháp 1947 Ư Quốc nêu lên cùng một ư nghĩa, nhưng dưới các diển tả khác:

- " Lá phiếu có tính cách cá nhân và b́nh đẳng, tự do và kín. Hành xử quyền bỏ phiếu là một bổn phận công dân" ( Điều 48, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

Qua đặc tính " cá nhân " của lá phiếu, chúng ta thấy tính cách phổ thông được Hiến Pháp 1949 CHLBD đề cập, nếu chúng ta đọc đoạn 1 của cùng một điều khoản Hiến Pháp 1947 Ư Quốc, được nêu ra trước đó:

- " Là cử tri mọi công dân, nam và nữ, đă đạt đến tuổi trưởng thành" ( Điều 48, đoạn 1, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

Nhập chung hai đoạn 1 và 2 của điều 48 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc, chúng ta thấy được lá phiếu để bầu cử là lá phiếu cá nhân của mọi công dân nam nữ đă đến tuổi trưởng thành, là lá phiếu cá nhân của mọi cử tri, hay lá phiếu cá nhân và phổ thông.

Như vậy, hai đoạn của điều 48 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc xác nhận lá phiếu bầu cử là lá phiếu cá nhân và phổ thông, của mọi công dân đến tuổi trưởng thành và được mỗi người, chính ḿnh đứng ra bỏ phiếu.

 

a)    Lá phiếu cá nhân hay lá phiếu trực tiếp

 

Lá phiếu cá nhân có nghĩa là phải được chính cá nhân cử tri đứng ra bỏ phiếu,

- nói lên ư kiến và xác tín mà ḿnh cho là chính đáng đối với vấn đề đang được cuộc bầu tử tổ chức để tham khảo,

- bỏ phiếu cho chính cá nhân mà ḿnh tín nhiệm là người có khả năng và đức hạnh,

- bỏ phiếu cho đảng phái mà ḿnh cho là chủ trương hợp với lư tưởng của ḿnh

- hay bỏ phiếu để ủng hộ hay bác bỏ chương tŕnh mà ḿnh cho là có lợi hay phương hại đến cuộc sống cá nhân và cuộc sống Quốc Gia.

Lá phiếu cá nhân, không ai được đứng ra bỏ phiếu thay cho ḿnh.

Muốn bảo đảm cho lá phiếu có tính cách cá nhân, không có phương thức nào hay hơn là lá phiếu phải được tự ḿnh lựa chọn lấy trong pḥng kín.

Và lá phiếu, muốn bảo đảm được tính cách cá nhân thực sự, là lá phiếu phải được tự do chọn lựa, không bị áp lực, doạ nạt trước cũng như sau khi bỏ phiếu.

Lá phiếu cá nhân đặt con người trước lương tâm và trách nhiệm của ḿnh đối với cuộc sống của chính ḿnh, và của đồng bào ḿnh, nói lên người dân hành xử " quyền tối thượng " của ḿnh trong cuộc sống Đất Nước ( Schmith Carl, Verfasssungslehre, Duncker u. Humblot, Berlin 1965, 245).

Chỉ có những thể chế quân chủ độc đoán, độc tài như Phát Xít và Cộng Sản mới kiểm soát, bắt bớ người dân phải bỏ phiếu công cộng và theo ư muốn " Đảng cử, dân bầu" của họ ( Nawiasky, Wahlrechtsfragen im heutigen Deuschland, Archiv des Verfassungslehre Rechts, N.E. 1931, 185).

Không bị sợ sệt khép nép, hay tôn trọng lễ nghĩa nào khác, lá phiếu cá nhân được bỏ phiếu trong pḥng kín cho phép người công dân cử tri ư thức và vững dạ những ǵ minh chọn, là những ǵ " quid propium " của chính ḿnh, hành xử theo lương tâm con người tự do và hiểu biết với trách nhiệm của ḿnh ( Ferrari, Enc. di dir., voce Elezioni ( teoria generale), 616).

Và đó cũng chính là những ǵ Viện Bảo Hiến Ư đă xác quyết: lá phiếu cá nhân là là phiếu bảo đảm cho người công dân cử tri được tự do lựa chọn, không phải bị bất cứ một ràng buộc nào ( Corte Cost., sent. n.16 del 1978 e n. 27 del 1981).

Lá phiếu cá nhân là lá phiếu phải được chính người công dân cử tri lựa chọn và tự tay ḿnh bỏ phiếu.

Người cử tri bị đui mù, cụt tay hay bị tê liệt bất toại, có thể hành xử quyền bỏ phiếu của ḿnh nhờ thân nhân hay một cử tri khác giúp đở, với tư cách là người t́nh nguyện, miễn là cả hai điều được ghi danh vào bản niêm yết cử tri tại xă ấp của ḿnh ( Điều 55, đoạn 2, " Văn Bản Luật Thống Nhất", Testo Unico, T.U. 1957 Ư Quốc, là Văn Bản tập họp và sửa đổi các luật lệ thời quân chủ, Statuto Albertino, và các bản văn luật pháp sau Hiến Pháp 1947)

Nhưng dù sao th́ phương thức thực hành trong các trường hợp bất khả kháng vừa kể, theo giáo sư Mortati Carlo, cũng có thể tạo nhiều lạm dụng, cần phải được kiểm sót chặt chẽ  ( Mortati C., Istituzioni di diritto pubblico, Cedam, Padova 1976, IX ed., vol. II, 431).

Cũng theo Văn Bản Luật Thống Nhứt trên ( T.U.,Testo Unico), người trợ lực hoặc được giao cho bổn phận bỏ phiếu giúp cho người tàn tật trong các trường hợp vừa kể, sẽ bị phạt tù từ 1 đến 3 năm và phạt tiền đến 50.000 lire lúc đó, năm 1967 ( tương đương với 10.000 Euro hiện nay), bỏ phiếu cho một ứng cử viên hay cho  một danh sách chính đảng khác với ư muốn bệnh nhân.

Văn Bản Luật Thống Nhứt cũng hạn chế là không ai có thể trợ giúp bỏ phiếu cho hơn một người tàn tật ( Điều 55, đoạn 3 T.U.).

C̣n nữa, sẽ bị phạt tù từ 3 đến 5 năm và phạt tiền mặt tương đương với 20.000 Euro, ai mạo danh người khác để bỏ phiếu bằng hồ sơ giả mạo ( Điều 103, đoạn 3 T.U.).

 

b)    Tính cách phổ quát của cuộc bỏ phiếu.

Tính cách phổ quát của các cuộc đầu phiếu được Hiến Pháp 1947 Ư Quốc xác nhận, như tinh thần của Hiến Pháp 1949 CHLBD:

- " Là cử tri, mọi công dân nam nữ đạt đến tuổi trưởng thành " ( Điều 48, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

Và như chúng ta biết điều 48, đoạn 1 vừa kể là điều khoản nằm trong phần đầu của Hiến Pháp 1947 Ư Quốc ( 1-54), phần nêu lên các quyền căn bản bất khả xâm phạm của con người và người công dân, trong Tiết Mục IV, nói về các mối tương quan chính trị giữa người dân và tổ chức Quốc Gia.

Do đó nêu lên thể thức bầu cử phổ thông, Hiến Pháp

- không chỉ có ư hạn hẹp đề cập đến các cuộc đầu phiếu để thiết định cơ chế hiến định Quốc Gia ( Hạ Viện, Thượng Viện và Hội Đồng Vùng, điều 56, 58 và 132 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc),

- mà c̣n nói lên tư cách pháp nhân của người cử tri, có quyền nói lên tiếng nói của ḿnh liên quan đến các tổ chức vượt trên tầm vóc Quốc Gia,  đặt Quốc Gia liên quan đến các Quốc Gia khác, như Quốc Hội Âu Châu chẳng hạn ( điều 3, luật 24.01.1979, số 14),

- cũng như việc chọn lựa định hướng chính trị phải có đáp ứng với hoàn cảnh thực tế, phát biểu ư kiến của ḿnh đồng thuận hay bác bỏ.

Nói tóm lại, quyền bầu cử là tư cách pháp nhân của người công dân trưởng thành có thể xử dụng bất cứ trong trường hợp nào, theo luật định, liên quan đến quyền chính trị của người dân đối với đất nước, Tiết Mục IV của Hiến Pháp 1947 Ư Quốc, và là một trong những quyền căn bản của con người, bất khả xâm phạm. 

Điều  48, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc vừa kể, liên quan đến phổ thông đầu phiếu,  không có ǵ khác hơn là áp dụng thực hành những giá trị được Hiến Pháp xác nhận trong phần đầu, phần nêu lên các giá trị về con người phải được tôn trọng ( điều 1-54).

Cộng Hoà Dân Chủ Ư Quốc sẽ không c̣n là một Quốc Gia Nhân Bản và Dân Chủ nữa, nếu

- mọi công dân đến tuổi trưởng thành của ḿnh không phải tất cả là cử tri; thiên vị, bè phái không c̣n phải là tôn trọng địa vị con người và thể chế  dân chủ tổ chức Quốc Gia, bởi lẽ b́nh đẳng là một trong những đặc tính căn bản tiên khởi của bản thể con người, trước khi là một đặc tính không thể thiếu trong thể chế dân chủ;

- theo định kỳ, các công dân không có được hành xử quyền cử tri của ḿnh, để thiết lập lại các cơ quan lănh đạo Quốc Gia, dân chủ không có luân phiên, canh tân giới lănh đạo có chương tŕnh tốt đẹp hơn, hiệu năng hơn, không thiên vị hơn là lối " dân chủ tập trung độc tài của Đảng và Nhà Nước" ( điều 6, Hiến Pháp 1992 XHCNVN), chớ không phải là dân chủ với ư nghĩa nguyên thủy tốt đẹp mà mọi người mong ước cho Đất Nước,

- mọi công dân đến tuổi trưởng thành đều được kêu gọi để bày tỏ ư kiến chọn lựa đường lối chính trị Quốc Gia phải có và có sáng kiến đưa ra đề nghị tốt đẹp hơn cho Quốc Gia.

Dĩ nhiên tŕnh độ dân chủ không thể chỉ được đo lường bằng trương độ số dân chúng được quyền bỏ phiếu, bởi lẽ

- ở một vài Quốc Gia quyền bỏ phiếu chỉ được dành cho các cử tri nam giới, chớ không

   * " Là cử tri, mọi công dân nam nữ đă đạt đến tuổi trưỏng thành"

- ở một vài Quốc Gia khác, quyền phổ thông đầu phiếu được áp dụng, nhưng lá phiếu không có tính cách cá nhân, không bi đặt điều kiện, người dân bị doạ nạt, kiểm soát, và chỉ bỏ phiếu cho các ứng viên đă được tiền định " Đảng cử, dân bầu " trong thể chế độc tài đảng trị.

Không ai lạ ǵ mà ở các Quốc Gia vừa được đề cập, tỷ số cử tri ủng hộ các thành viên được tuyển chọn vượt trên 90%.

Tỷ số đồng thuận càng cao, càng tố cáo bộ mặt độc tài cưỡng chế của tổ chức Quốc Gia, chớ không phải toàn quốc dân chúng chỉ là đoàn cừu không biết suy nghĩ.

B - Tự do.

Lá phiếu tự do được luật bầu cử ở Ư, trong Bản Văn Luật Thống Nhứt 1957 ( Testo Unico, T.U.) bảo đảm bằng cách:

- tuyên án phát bất cứ ai dùng bạo lực hay đe doạ chính cử tri hoặc người thân của cử tri để bắt buộc cử tri phải bỏ phiếu cho người nầy hay người khác, bỏ phiếu cho danh sách đảng nầy hay đảng khác, bỏ phiếu trắng hoặc không đi bỏ phiếu, tuyên truyền loan tin thất thiệt, hoặc dùng các thủ thuật để lường gạt cử tri ( Điều 97, T.U.).

- tuyên án phạt viên chức có bổn phận phục vụ công cộng, cơ quan phục vụ công ích, giáo sĩ của bất cứ tôn giáo nào, hay bất cứ ai có phận vụ hành xử công quyền dân sự cũng như quân sự, lợi dụng vị thế của ḿnh để ảnh hưởng hay thuyết phục, làm áp lực lên cử tri bỏ phiếu cho ứng viên nầy hay đảng phái khác, cũng như tạo ảnh hưởng để cử tri bỏ việc hành xử quyền và bổn phận công dân bỏ phiếu của ḿnh ( Điều 98, T.U.).

- tuyên án phạt bất cứ ai doạ nạt hay dùng bạo lực phá rối tiến tŕnh bỏ phiếu tại địa điểm dân chúng đang hành xử quyền và bổn phận công dân bỏ phiếu của ḿnh ( Điều 100, T.U.).

- cấm ngặt mọi cuộc hội họp tuyên truyền vận động tuyển cử ngày hôm trước, cũng như trong thời gian bỏ phiếu đang diển tiến, khiến dân chúng hoang mang, mất định hướng những ǵ ḿnh đă suy nghĩ ( Điều 8, luật 24.04.1975, n. 130).

- cấm ngặt mọi cuộc hội họp, tuyên truyền ở các nơi công cộng cũng như những nơi được mở ra cho công chúng ( tiệm ăn, quán bar, hư trường, nơi tế tự) hay hội họp đi biểu t́nh tuyên truyền, dán bích chương, căn biểu ngữ bênh vực cho phe nhóm hay xách động, phá rối  trong khuôn viên cách lối ra vào nơi bỏ phiếu dưới 200 thước ( Mortati C., Instituzioni di diritto pubblico, id., 434).

Cách thức chọn người đại diện ḿnh  lănh đạo trong thể chế dân chủ được Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức tuyên bố:

“ Các Dân Biểu Hạ Viện ( Bundestag) được tuyển chọn qua các cuộc đầu phiếu phổ thông, trực tiếp, tự do, b́nh đẳng và kín ” ( Điều 38).

Các tĩnh từ “ phổ thông, trực tiếp, b́nh đẳng và kín ” nêu lên những đặc tính khá minh bạch, có lẽ chúng ta không cần hay chưa cần đề cập đến, nếu chúng ta chưa xác định được thoả đáng tĩnh từ “ tự do ”.

Từ ngữ “ tự do ” ở đây, không chỉ dùng để đề cập đến động tác bỏ phiếu không bị giới hạn, không bị áp chế của người dân trong lúc bỏ phiếu, mà c̣n hàm chứa những điều kiện phải có trước đó.

Bởi lẽ không có những điều kiện phải có ( sine qua non) trước đó, động tác được coi là “tự do ” trong ngày bỏ phiếu, sẽ không thể hiện được   “ tự do ” bao nhiêu để có thể tuyên bố và bảo đảm cho dân chủ.

Đó là chưa kể đến những h́nh thức “ tự do giả tạo ” của chính động tác bỏ phiếu.

Những điều kiện tiên quyết không thể thiếu, trước khi có cuộc bầu cử “ tự do ”, có khả năng phong tước một cách dân chủ cho những ai đại diện dân lănh đạo Quốc Gia, đó là trong thời gian chuẩn bị, các quyền “ tự do ngôn luận, tự do truyền bá tư tưởng, tự do lập hội và tự do gia nhập hội, tự do hội họp  ” phải được tôn trọng.

Nói cách khác, trong thời gian chuẩn bị, người dân phải có quyền lập đảng và gia nhập đảng.

Các chính đảng được tự do thành lập và hoạt động, có quyền tự do ngôn luận để phổ biến đến dân chúng

   - lư tưởng dân chủ, các bậc thang giá trị phải được tôn trọng,

   - chính sách lănh đạo Quốc Gia

   - và các chương tŕnh khả thi và hữu hiệu mà ḿnh muốn thực hiện cho Quốc Gia.

Muốn cho cuộc bầu cử có ư nghĩa dân chủ thực sự, các chính đảng phải có thời gian và tự do để phổ biến và thuyết phục dân chúng những ǵ chúng ta vừa đề cập.

Các chính đảng phải có quyền tự do ngôn luận, được xử dụng các phương tiện truyền thông để chuyển đạt đến dân chúng chủ trương và chương tŕnh thực hiện cho đất nước.

Các chính đảng phải được tự do thành lập, hoạt động, xử dụng các phương tiện truyền thông mà không bị hâm doạ.

Các chính đảng phải được tự do tạo ra dư luận quần chúng.

Bởi v́ nếu chúng ta đồng ư rằng đặc tính không thể thiếu của thể chế dân chủ là

“ Chính Quyền của thể chế dân chủ là chính quyền được phát sinh do sự đồng thuận của đa số dân chúng ” ( Giovanni Sartori, Democrazia, Che Cosa è?, Milano, Rizzoli, 61),

th́ “ …nền tảng của Chính Quyền dân chủ là sự đồng thuận của quần chúng ” ( Dicey, A.V., Lectures on the Relation Between Law and Public Opinion in England during the XIX Century, London , MacMilan, 1905,3).

Chúng ta nên lưu ư là chúng ta đang dùng danh từ “ sự đồng thuận ” ( consensus) của dân chúng thay v́ “ dư luận quần chúng ” ( opinio ).

Dân chúng đồng thuận ( consensus, do từ ngữ La Tinh cum : với nhau, và sensus (sentire): cảm thấy.

Như vậy “ đồng thuận ” (consensus): cùng chung với nhau cảm thấy, cảm thấy như nhau, từ đó liên kết nhau, chung nhiệm vụ với nhau).

Đồng thuận với nhau hay cùng cảm thấy như nhau về những ǵ:

-           đồng thuận nhau về các bậc thang giá trị và lư tưởng phải hướng đến trong việc tổ chức Quốc Gia,

-           đồng thuận nhau về định chế để thực hiện các lư tưởng và giá trị đó vào cuộc sống thực tế của cộng đồng Quốc Gia,

-           đồng thuận chọn người đại diện ḿnh để thừa hành.

Nhưng muốn đồng thuận phải có ư kiến. Đồng thuận về vấn đề ǵ? Ư kiến là đối tượng của sự đồng thuận.

Nhưng ư kiến không tự dưng có được. Ư kiến được phát sinh sau khi chúng ta được thông tin, suy tư, chọn lọc, đúc kết.

Muốn có ư kiến quần chúng thật sự được tự do kết thành, trong thể chế dân chủ, chúng ta cần có 3 điều kiện:

-           tự do tư tưởng,

-           tự do ngôn luận để truyền bá tư tưởng,

-           các nguồn thông tin đa nguyên.

Người dân phải được tự do thu thập các nguồn tư tưởng và có quyền kiểm soát những ǵ được nói ra, viết ra xem có phù hợp với sự thật hay không, những ǵ được nói được viết ra có phù hợp với sự thật đă được nói ra, đă xảy ra hay không.

Tầm mức quan trọng đó đă được Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức đứng ra bảo đảm:

“ Mọi công dân đều có quyền phát biểu và truyền bá một cách tự do ư kiến của ḿnh bằng lời nói, bằng chữ viết và h́nh ảnh, và được tự do thông tin mà không  bị cản trở, từ các nguồn truyền thông mà ai cũng tham dự được. Tự do báo chí và tự do truyền thông bằng đài phát thanh ( phương tiện tân tiến nhứt đến năm 1949) và điện ảnh được bảo đảm. Không có một sự kiểm duyệt nào có thể được chấp nhận” ( Điều 5, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).

Thiếu quyền kiểm chứng sự thật làm bảo chứng, tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để truyền bá tư tưởng, sẽ biến thành tự do lường gạt, tự do mạ lỵ, tự do truyền bá những điều thất thiệt.

Do đó quyền tự do ngôn luận được gắn liền với quyền tự do kiểm chứng sự thật và tố giác những tuyên truyền thất thiệt, lường gạt và mạ lỵ.

Nhà Nước XHCN với chế độ độc quyền giáo dục, kiểm soát phương tiện truyền thông, độc tôn về ư thức hệ XHCN, nghiêm cấm văn hoá và tư tuởng, tin tức của các “ người nước ngoài ”, có tôn trọng tự do ngôn luận, phương tiện chính yếu để đưa đến sự đồng thuận đích thực, nền tảng của thể chế dân chủ không?

Và như vậy các cuộc bầu cử do Đảng và Nhà Nước tổ chức có thực sự dân chủ hay không?  Hỏi để chúng ta trả lời.

Tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để truyền bá tư tưởng để kiến tạo dân chủ như vừa thấy, phải được bầu không khí an ninh che chở.

Được luật pháp che chở chưa đủ ( giả sử luật pháp có giá trị thực hữu trong cơ chế XHCN), mà c̣n cần phải có môi trường sống không làm cho con người phải sợ sệt. Hệ thống công an dày đặc kiểm soát từ thành thị đến thôn quê, một cử chỉ, một lời nói không “ nhất trí ” với Đảng và Nhà Nước đều không thể qua khỏi cặp mắt cú vọ của công an và đương sự sẽ được công an chiếu cố mời đi “ làm việc ” ở văn pḥng công an phường, công an xóm.

Và ai có "đặc ân " được Đảng chiếu cố kỹ hơn, sẽ được Đảng cho đi “ học tập cải tạo ” không biết ngày về.

Trong bầu không khí vừa kể, người dân có được an tâm, che chở hay “ bảo đảm ” của điều 5  Hiến Pháp 1949 CHLBĐ vừa kể không?

Hỏi để chúng ta trả lời.

Bởi lẽ “ một khi sợ không dám nói ra những điều ḿnh suy nghĩ, dần dần nguời ta cũng sẽ không c̣n muốn suy nghĩ những điều ḿnh không dám nói nữa ” ( Giovanni Sartori, op. cit., 69).

Câu văn vừa trích dẫn của giáo sư Giovanni Sartori cho thấy sự liên hệ giữa tự do tư tưởng và tự do ngôn luận.

Không có điều kiện để con người được tự do tư tưởng, th́ tự do ngôn luận cũng không thể có được. Và không có tự do ngôn luận, sẽ không thể có tự do tạo dư luận và không có sự đồng thuận đích thực, yếu tố thiết yếu để chọn người đại diện một cách dân chủ lănh đạo Quốc Gia.

Nói tóm lại, không có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, sẽ không có Quốc Gia dân chủ đích thực

C - B́nh đẳng.

Lá phiếu b́nh đẳng là phương thức thể hiện quyền b́nh đẳng của mọi công dân không phân biệt địa vị cá nhân hay xă hội:

- " Mọi người đều có địa vị ngang nhau và b́nh đẳng trước pháp luật, không phân biệt phái giống, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, điều kiện cá nhân hay xă hội " ( Điều 3, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

- " Mọi người đều b́nh đẳng trước pháp luật"

    Không ai có thể bị thua thiệt hay được ưu đải v́ lư do phái giống, sinh trưởng, chủng tộc, ngôn ngữ, quốc tịch hay xuất xứ, niềm tin, quan niệm tôn giáo hay chính trị của ḿnh" ( Điều 3, đoạn 1 và 3 Hiến Pháp 1949 CHLBD)

Trên nguyên tắc, lá phiếu b́nh đẳng được bảo đảm trong động tác bỏ phiếu, nhưng c̣n vấn đề luật pháp phải làm sao bảo đảm được cả lúc thẩm định giá trị, tùy theo luật lệ bầu cử của mỗi định chế.

 "Lá phiếu được vớt lại " ở CHLBD ( cfr. LUẬT BẦU CỬ CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC) cho thấy tinh thần dân chủ, b́nh đẳng cao độ của người dân Đức.

Tùy theo mỗi định chế, giá trị lá phiếu b́nh đẳng của động tác bỏ phiếu có thể có giá trị khác nhau khi thẩm định:

- phương thức " tưởng thưởng đa số tuyệt đối hay đa số định tính 2/3 ( majorité qualifiée) đạt được của ứng viên hay chính đảng là trường hợp điển h́nh, cho phép chính đảng được các mức đa số vừa kể có nhiều dân biểu được tuyển chọn  hơn là do chính sức mạnh của của các phiếu định đoạt   ( Luật 31.03.1953, n. 148 Ư Quốc),

- lá phiếu sẽ không có giá trị nào cho chính đảng không có được

   * ít nhứt 1 dân biểu trong đơn vị bầu cử hay 300.000 phiếu trên toàn quốc ( Điều 83, đoạn 1 T.U. 1957 Ư Quốc)

   * hay không có được 3 cử tri đơn danh và ít nhứt 5% số phiếu trên toàn quốc, theo đạo luật " lằn mức ngăn chận" ( Sperrklausell) ở Cộng Hoà Liên Bang Đức.

Ở Ư phương thức hành xử " tưởng thưởng đa số " như vừa kể của luật bầu cử năm 1953, đă bị Viện Bảo Hiến phán quyết  là cách cho phép hành xử vi hiến của đạo luật 148, T.U. vừa kể, v́ không hợp với tinh thần quyền b́nh đẳng ( điều 3, đoạn 1) của Hiến Pháp, chúng ta đă trích dẫn ở trên ( Corte Cost., sent. n. 63 del 1961) ( Paladin Livio, Il principio costituzionale dell'eguaglianza, Giuffré, Milano 1965, 304s).

C̣n nữa, có thể động tác bỏ phiếu là động tác b́nh đẳng nơi thùng phiếu, nhưng tổ chức Quốc Gia cũng như hệ thống luật pháp phải được thiết định thế nào để những cản trở về kinh tế, xă hội, kể cả điều kiện sinh sống và làm việc, không là chướng ngại vật ảnh hưởng, đặt điều kiện ép bức

người  cử tri lệ thuộc vào một số dữ kiện nào đó khi cầm lá phiếu trong tay:

- " Bổn phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xă hội, là những chướng ngại, trong khi giới hạn thật sự tự do và b́nh đẳng của người dân, không cho phép mỗi người triển nở hoàn hảo con người của ḿnh và tham gia một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xă hội của Xứ Sở" ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

( Romagnoli Umberto, Principi fondamentali ( art 1-12 ), in Commentario della Costituzione, a cura di G. Branca, Zanichelli, Bologna 1975, 164s).

D - Lá phiếu kín.

Lá phiếu kín có nghĩa là người cử tri có thể bỏ phiếu nơi kín đáo, tự ḿnh phát biểu tư tưởng của ḿnh về vấn đề đang bàn:

- chọn Hạ Viện Quốc Hội,

- Hội Đồng Vùng, Xă Ấp,

- trưng cầu dân ư để chấp thuận hay bác bỏ dự án chính trị sắp được thi hành,

- trưng cầu dân ư bải bỏ đạo luật không thích hợp...

Về phía người cử tri, lá phiếu kín có nghĩa là không được nói với ai, ít ra trong ngày bỏ phiếu, là ḿnh sẽ hay đă bỏ phiếu cho ai, cho biết " chấp nhận hay bác bỏ"  dự án luật hay đề thảo đường lối chính trị mà ḿnh được hỏi ư kiến.

Lá phiếu kín là điều kiện cần thiết, nhưng tự nó chưa đủ để bảo đảm là lá phiếu tự do, mặc dầu được bỏ phiếu trong pḥng kín cũng vậy, nếu những điều kiện về cá nhân, tự do và b́nh đẳng kể trên không được bảo đảm.

Lá phiếu kín được bảo đảm bằng

- dùng chính mẫu phiếu đồng nhứt về màu sắc cũng như kích thước, được chính cơ quan Chính Quyền thực hiện ( Điều 31, T.U.),

- bảo đảm cho cử tri đến bàn giấy tŕnh diện hồ sơ, thẻ căn cước, kiểm soát tên họ ḿnh trong danh sách cử tri, nhận lấy các lá phiếu , mà không một người ngoại cuộc nào được đi theo hoặc đến gần ( Điều 58, đoạn 2 T.U.).

- nếu cử tri không đồng thuận vào pḥng kín để bỏ phiếu, v́ bị áp lực, doạ nạt nào đó có thể,  vị chủ tịch của ủy ban tại pḥng phiếu phải thu góp tất cả các lá phiếu lại và tuyên bố vô hiệu lực việc bỏ phiếu của cử tri ( Điều 62, T.U.).

- nếu vị chủ tịch không can thiệp để cho người khác cản trở cử tri không được vào pḥng kín để bỏ phiếu, việc thiếu trách nhiệm đó có thể cho ông lănh án từ 3 tháng đến 1 năm tù ( Điều 111, T.U.).

- mọi lá phiếu có chữ viết hay dấu hiệu làm cho người khác có thể nhận diện được chủ nhân của là phiếu, đều bị coi là vô hiệu lực ( Điều 62, T.U.),

Thật  ra tất cả những ǵ vừa kể cho thấy cả các Quốc Gia Tây Âu vẫn chưa đạt đến tŕnh độ dân chủ lư tưởng như mong muốn.

Ai trong chúng ta cũng biết tư tưởng dân chủ của chúng ta phát xuất từ quan niệm dân chủ được áp dụng từ thời Cộng Hoà Athène của Hy Lạp, thể kỷ 2-3 trước Thiên Chúa Giáng Sinh, đến thế kỷ 3 sau Thiên Chúa Giáng  Sinh: ( Démocratie ( Pháp ngữ), Democracy ( Anh ngữ), Demokratie ( Đức ngữ), Democratia ( La tinh) và Democrazia ( Ư ngữ), đều phát xuất từ Demokratía ( Hy Lap) : Demos, dân chúng; krátos: quyền hành).

Phương thức hành xử Dân Chủ Trực Tiếp của dân chúng Hy Lạp: mỗi khi có vấn đề phải giải quyết, liên quan đến phương cách tổ chức thị xă              ( Politiké) hay " đường lối chính trị Quốc Gia", nói như ngôn từ chúng ta, dân chúng của Thị Xă ( Polis) được kêu gọi tựu họp nhau ở công trường, và giải quyết " chấp nhận hay bác bỏ" bằng cách giơ tay hay hô to.

Người dân Hy Lạp lúc đó áp dụng phương thức bỏ phiếu " công cộng " ( publique). Bởi lẽ họ có tinh thần dân chủ thực sự và cao độ, không ai bắt nạt được ai, khi mọi người đều có quyền ngang nhau bày tỏ ư kiến của ḿnh trong cộng đoàn đang nhóm họp ( Isegoría: do isos, như nhau; agorà: cộng đồng: mọi người đều như nhau, ngang hàng nhau, có quyền phát biểu như nhau, lúc cộng đồng đang nhóm họp; hay: " tự do ngôn luận", nói theo ngôn ngữ chúng ta).

Các hành xử dân chủ của dân Hy Lạp lúc đó là phương thức hành xử " dân chủ trực tiếp ": người dân tự ḿnh đứng ra cho biết ư kiến và điều hành Thị Xă theo đa số.

Từ cách hành xử dân chủ đó của người Hy Lạp trong lịch sử, chúng ta thấy được lư tưởng của một Quốc Gia dân chủ thực sự, là lư tưởng nơi đó người dân cử tri có thể công nhiên bày tỏ lập trường của ḿnh, không sợ áp lực, điều kiện trước khi bỏ phiếu và cũng không sợ hậu quả đối với tư tưởng ḿnh đă phát biểu. 

Nền dân chủ của chúng ta, của cả các nước văn minh Tây Âu, vẫn c̣n áp dụng nhiều trường hợp bỏ phiếu kín, cho thấy chưa có điều kiện dân chủ như người Hy Lạp lúc đó, người cử tri không bị áp lực và cũng không sợ hậu quả thù hận của xă hội chúng ta.

Nói cách khác, bỏ phiếu kín là một phương thức bảo đảm cho lá phiếu được tự do, mặc dầu bỏ phiếu kín tự nó là " điều kiện cần thiết " chớ " chưa đủ " để lá phiếu phát biểu được " tự do phát biểu tư tưởng ", như trong các trường họp và điều kiện được đề cập.

Bỏ phiếu kín, là mặc nhiên công nhận lá phiếu có thể không được tự do diễn tả tư tưởng của cử tri, nếu phải bỏ phiếu công khai.

Tuy nhiên trong thể chế dân chủ của các Quốc Gia Tây Âu, một đôi khi Hiến Pháp cũng chỉ định phải bỏ phiếu công khai, với mục đích khác, được Hiến Pháp nhằm đến.

- Quốc Hội bỏ phiếu công khai để chấp thuận tín nhiệm hay bất tín nhiệm Chính Quyền, cho phép Chính Quyền bắt đầu, tiếp tục hành xử quyền lực Quốc Gia hay không cho và bắt buộc phải giải nhiệm:

   * " Mỗi Viện Quốc Hội chấp nhận hay thu hồi tín nhiệm của ḿnh bằng nguyên cớ có lư do và qua cuộc bỏ phiếu xướng danh ( voto nominale)"      ( Điều 94, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

Trường hợp vừa kể cho thấy mỗi thành viên của Lưỡng Viện Quốc Hội công khai bày tỏ lập trường của ḿnh đối với Chính Quyền, xứng đáng hay không đảm trách xử dụng uy quyền Quốc Gia.

Lá phiếu công khai  không những nói lập trường của cá nhân vị nghị sĩ, mà c̣n là lập trường của chính đảng mà nghị sĩ là thành viên thuộc hệ.

Lá phiếu công khai của vị nghị sĩ, cũng là đường lối chính trị của chính đảng liên hệ, được phổ biến cho dân chúng biết, để mọi người thấy đâu là lẽ phải và đường lối thích hợp hành xử cho Quốc Gia.

Lập trường đó của vị nghị sĩ và của chính đảng ông sẽ có ảnh hưởng đến lần bỏ phiếu sắp đến cho ông và cho đảng ông, được dân chúng suy nghĩ quyết định.

- Trong khi đó th́ dường như hầu hết các cuộc bỏ phiếu có liên quan đến chủ thể con người ứng viên, để tôn trọng nhân phẩm của ứng cử viên, đều được Hiến Pháp thiết định qua các cuộc bỏ phiếu  kín và không ai được tiết lộ lư do nội dung của lá phiếu.

Nói cách khác, không được dùng lá phiếu như là dụng cụ để tâng bốc, cũng như mạ lỵ ứng cử viên.

Đó là trường hợp bỏ phiếu kín

   *để chọn Tổng Thống, được thành viên của Lưỡng Viện Quốc Hội và đại biểu của các Vùng đứng ra tuyển chọn( Điều 48, đoạn 1 Hiến Pháp 1947).

   *để chọn 5 thẩm phán của Viện Bảo Hiến và 10 thành viên của Tối Cao Pháp Viện được Lưỡng Viện Quốc Hội tuyển chọn ( Điều 3, Luât Hiến Pháp 22.11.1967, n.2 và 22; Luật Hiến Pháp 24.03.1958, n. 195 Ư Quốc).

   * để tuyển chọn thành viên của các cơ cấu nội bộ của mỗi Viện Quốc Hội do các dân biểu bầu ra: để bầu Chủ Tịch Hạ Viện ( Điều 4, đoạn 2 Nội Quy Hạ Viện; điều 4, đoạn 1 Nội Quy Thượng Viện Ư Quốc).

   * để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận một số vấn đề nào đó vào chương tŕnh bàn thảo của Quốc Hội trong thời gian ấn định ( ordine del giorno), ( Điều 27, đoạn 2 Nội Quy Hạ Viện Ư Quốc),

  * để " chuẩn y hay bác bỏ " dự thảo luật đă được đệ tŕnh và được các Ủy Ban liên hệ nghiêng cứu ( Điều 91, đoạn 1 Nội Quy Hạ Viện Ư Quốc).

Thường th́ trong các phiên bàn cải của các Ủy Ban Quốc Hội, cuộc bỏ phiếu bằng các giơ tay để quyết định, trừ khi được đa số thành viên của Ủy Ban, đối với một số vấn đề nào đó, yêu cầu bỏ phiếu kín ( Điều 51, đoạn 1 Nội Quy Hạ Viện và điều 113, đoạn 2 Nội Quy Thượng Viện Ư Quốc).

E - Bỏ phiếu là bổn phận công dân. 

Phần cuối cùng của điều 48, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc đề cập đến hành xử quyền bỏ phiếu là bổn phận công dân của mọi người dân đến tuổi trưỏng thành:

- " Lá phiếu có tính cách cá nhân và b́nh đẳng, tự do và kín. Hành xử quyền bỏ phiếu là bổn phận công dân" ( Điều 48, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

Và điều 4, Bản Văn Luật Thống Nhứt, T.U. cho rằng: 

" Tác động bỏ phiếu là một bổn phận bắt buộc mà không công dân nào có thể khước từ, nếu không muốn thiếu bổn phận chính xác của ḿnh đối với Quê Hương".

Nền tảng của bổn phận công dân vừa được nêu ra, được đặt trên lợi ích chung của những ai được kêu gọi để tuyển chọn

- những người có trách nhiệm các cơ quan tối thượng đại diện cho Quốc Gia,

- những thành viên các cơ quan công quyền,

- những chương tŕnh quyết định để áp dụng thực thi của các cơ quan được đề cập ( Mortati C., Istituzioni di diritto pubblico, Cedam, Padova 1976, IX ed., vol 2, 434). 

Như vậy không đi bỏ phiếu hay " không tham dự vào chính trị ", " không làm chính trị ", để chọn lựa những ǵ tốt đẹp nhứt , khả thi, áp dụng cho đất nước, là thiếu bổn phận liên đới với đồng bào ḿnh, chớ không phải muốn làm hay không cũng được.

Là thái độ hèn mạc, ích kỷ, chỉ biết sống cho ḿnh, bỏ mặc đông bào " sống chết mặc bây ! " :

- " Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xă hội, nơi con người phát triển nhân cách của ḿnh, và đ̣i buộc chu toàn các bổn phận liên đới không thể thiếu về phương diện chính trị, kinh tế và xă hội "  ( Điều 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).

" ...và đ̣i buộc chu toàn các bổn phận liên đới không thể thiếu về phương diện chính trị, kinh tế và xă hội " là câu tuyên bố của Hiến Pháp dưới h́nh thức mệnh lệnh tính, để những ai " không làm chính trị, không tha thiết ǵ đối với chính trị " tự vấn lương tâm và suy nghĩ xem ḿnh có " chu toàn các bổn phận liên đới không thể thiếu " đối với anh em đồng bào ḿnh không?

Và rồi hành động vô trách nhiệm và ích kỷ vừa kể, trước sau ǵ cũng sẽ có ảnh hưởng " boomerang " ngay cả đến cuộc sống cá nhân của ḿnh.

Và cũng v́ đó, làm thiệt hại cho đồng bào và cho chính ḿnh, mà Bản Văn Luật Thống Nhứt, điều 115 T.U., tuyên án phạt:

- danh sách của những ai không chu toàn quyền và bổn phận bỏ phiếu sẽ được niêm yết tại cơ quan hành chánh xă ấp nơi các đương sự cư ngụ trong ṿng một tháng.

- trong thời gian 5 năm, trên căn cước, hay thẻ thông hành, cũng như các giấy chứng nhận và thị thực của xă ấp liên hệ,  đều sẽ được đóng dấu " đă không bỏ phiếu", đối với các đương sự không đi bỏ phiếu mà không có lư do chính đáng.

- vị xă trưởng, sau khi định giá những lư do được đưa ra, có bổn phận liệt kê vào danh sách niêm yết những ai không thi hành quyền và bổn phận bỏ phiếu,

chỉ trừ

* các giáo sĩ của bất cứ tôn giáo nào,

   * những ứng viên định cư ở xă ấp khác, có tên trong danh sách để được bầu cử tại xă ấp của vị xă trưởng,

   * những ai chứng minh được v́ lư do bất khả kháng, kể cả v́ nghề nghiệp phải di chuyển trên 30 cây số để đến được nơi bỏ phiếu, hay những cử tri đang bị đau ốm ( Điều 115 T.U.).

Và để giúp giải quyết một ít khó khăn cho các cử tri, các đạo luật 116, 117 và 118 T.U. quyết định:

- điều 116, giá vé đường hoả xa nội địa được giảm đến 70%, cả đi lẫn về,  cho các ứng viên phải di chuyển tại nơi hiện cư đến địa điểm bỏ phiếu, được chứng minh bằng thẻ cử tri.

- điều 117, đối với các công dân di cư ra ngoại quốc, giá vé hỏa xa sẽ miễn phí, cả đi lẫn về, kể từ trạm đầu tiên khi vào biên giới cho đến địa điểm bỏ phiếu.

- điều 118, hoàn trả chi phí cho quân nhân hay nhân viên công chức dân sự phải di chuyển đến nơi bỏ phiếu, khác với nhiệm sở đang đảm trách trên mọi phần đất Quốc Gia.

Nói tóm lại xác nhận thể thức bầu cử phải được tổ chức và bảo đảm bằng lá phiếu

- cá nhân

- và phổ quát,

- trực tiếp,

- tự do,

- b́nh đẳng

- và kín,

cũng như xác định bỏ phiếu là quyền và bổn phận công dân không thể thiếu, với những phương thức trừng phạt đối với những ai thiếu trách nhiệm và trợ giúp phương tiện cho các cử tri gặp khó khăn, cho thấy Hiến Pháp xác định tầm quan trọng của động tác bỏ phiếu.

Không có bầu cử, nhứt là bầu cử được thực hiện trong những điều kiện vừa nêu lên, sẽ không có dân chủ.

Hiến Pháp đứng ra định nghĩa thể chế  Nhân Bản và Dân Chủ:

- " Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm" ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức),

- " Cộng Hoà Liên Bang Đức là một Quốc Gia Liên Bang, Dân Chủ và Xă Hội " ( Điều 20, đoạn 1, id.).

hay

- " Ư Quốc là một Quốc Gia Cộng Hoà Dân Chủ, được xây dựng trên nền tảng làm việc" ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc),

Sẽ là những câu nói vô nghĩa, nếu không đứng ra bảo đảm được quyền và bổn phận bầu cử của người dân, được thực hiện trong các điều kiện nêu trên.

Nhân Bản và Dân Chủ không phải chỉ tuyên bố mà có, mà là tuyên bố và đứng ra tiền liệu các phương thức để có được và bảo đảm cho tồn tại.

Nhân Bản và Dân Chủ " thực hữu " ( substantielles) khác với Nhân Bản và Dân Chủ " thuyết lư " ( formelles) hay tuyên bố mỵ dân ( démagogique).