
Friday, June 17, 2011 trang ch�nh || lưu trữ || li�n lạc
|
Nguyễn Tr�i , hiệu l� Ức Trai, 1380�1442, l� đại thần nh� Hậu L�, một nh�n vật vĩ đại về nhiều mặt, rất hiếm c� trong lịch sử. C�ng lao sự nghiệp của �ng rất lớn. Đạo đức phong c�ch của �ng rất cao đẹp. �ng l� một anh h�ng d�n tộc vĩ đại, l� nh� ch�nh trị lỗi lạc, nh� chiến lược thi�n t�i, nh� ngoại giao kiệt xuất, đồng thời l� một nh� văn lớn, nh� thơ lớn, nh� sử học, nh� địa l� học, nh� l�m luật ph�p v� �m nhạc xuất sắc. Năm 1980, �ng được UNESCO c�ng nhận l� danh nh�n văn h�a thế giới nh�n dịp kỷ niệm 600 năm ng�y sinh của �ng. Ngay từ khi c�n sống, Nguyễn Tr�i đ� được những người đương thời khen ngợi l�: Kinh bang hoa quốc, cổ v� tiền Nghĩa l�: Dựng nước v� l�m vẻ vang tổ quốc, từ xưa chưa ai được như �ng
B�NH NG� ĐẠI C�O Từng nghe: Việc nh�n nghĩa cốt ở y�n d�n, Qu�n điếu phạt trước lo trừ bạo; Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đ� l�u, Nước non bờ cỏi đ� chia, Phong tục Bắc Nam cũng kh�c; Từ Triệu, Đinh, L�, Trần Bao đời x�y nền độc lập; C�ng H�n, Đường, Tống, Nguy�n Mỗi b�n h�ng cứ một phương; Tuy mạnh yếu c� l�c kh�c nhau, Song h�o kiệt thời n�o cũng c�. Cho n�n: Lưu Cung tham c�ng n�n thất bại; Triệu Tiết ch� lớn phải vong th�n; Cửa H�m tử bắt sống Toa Đ� S�ng Bạch Đằng giết tươi � M� Việc xưa xem x�t. Chứng cứ c�n ghi. Vừa rồi: Nh�n họ Hồ ch�nh sự phiền h� Để trong nước l�ng d�n o�n hận Qu�n cuồng Minh thừa cơ g�y loạn Bọn gian t� c�n b�n nước cầu vinh Nướng d�n đen tr�n ngọn lửa hung t�n V�i con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa d�n đủ mu�n ng�n kế G�y th� kết o�n trải mấy mươi năm Bại nh�n nghĩa n�t cả đất trời. Nặng thuế kh�a sạch kh�ng đầm n�i. Người bị �p xuống biển d�ng lưng m� ngọc, Ng�n thay c� mập thuồng luồng. Kẻ bị đem v�o n�i đ�i c�t t�m v�ng, Khốn nỗi rừng s�u nước độc. V�t sản vật, bắt d� chim sả, Chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nh�n d�n, bắt bẫy hươu đen, Nơi nơi cạm đặt. T�n hại cả giống c�n tr�ng c�y cỏ, Nheo nh�c thay kẻ g�a bụa khốn c�ng. Thằng h� miệng, đứa nhe răng, M�u mỡ bấy no n� chưa ch�n, Nay x�y nh�, mai đắp đất, ch�n tay n�o phục dịch cho vừa? Nặng nề những nổi phu phen Tan t�c cả nghề canh cửi. Độc �c thay, tr�c Nam Sơn kh�ng ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đ�ng Hải kh�ng rửa sạch m�i! L�ng người đều căm giận, Trời đất chẳng dung tha; Ta đ�y: N�i Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang d� nương m�nh Ngẫm th� lớn h� đội trời chung Căm giặc nước thề kh�ng c�ng sống Đau l�ng nhức �c, chốc đ� mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, h� phải một hai sớm tối. Qu�n ăn v� giận, s�ch lược thao suy x�t đ� tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo c�ng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy l�n, Ch�nh l�c qu�n th� đang mạnh. Lại ngặt v�: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nh�n t�i như l� m�a thu,Việc b�n tẩu thiếu kẻ đỡ đần, Nơi duy �c hiếm người b�n bạc,Tấm l�ng cứu nước, Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đ�ng,Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm c�n d�nh ph�a tả. Thế m�: Tr�ng người, người c�ng vắng b�ng, Mịt m� như nh�n chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc l�ng, vội v� hơn cứu người chết đ�i. Phần v� giận qu�n th� ngang dọc, Phần v� lo vận nước kh� khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, L�c Kh�i Huyện qu�n kh�ng một đội. Trời thử l�ng trao cho mệnh lớn Ta gắng tr� khắc phục gian nan. Nh�n d�n bốn cỏi một nh�, dựng cần tr�c ngọn cờ phất phới Tướng sĩ một l�ng phụ tử, H�a nước s�ng ch�n rượu ngọt ng�o. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, D�ng qu�n mai phục, lấy �t địch nhiều. Trọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung t�n, Lấy ch� nh�n để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Tr� L�n tr�c chẻ tro bay. Sĩ kh� đ� hăng Qu�n thanh c�ng mạnh. Trần Tr�, Sơn Thọ nghe hơi m� mất v�a, L� An, Phương Ch�nh, n�n thở cầu tho�t th�n. Thừa thắng đuổi d�i, T�y Kinh qu�n ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đ�nh, Đ�ng Đ� đất cũ thu về. Ninh Kiều m�u chảy th�nh s�ng, tanh h�i vạn dặm Tụy Động th�y chất đầy nội, nhơ để ng�n năm. Ph�c t�m qu�n giặc: Trần Hiệp đ� phải b�u đầu Mọt gian kẻ th�: L� Lượng cũng đ�nh bỏ mạng. Vương Th�ng gỡ thế nguy, m� đ�m lửa ch�y lại c�ng ch�y M� Anh cứu trận đ�nh M� qu�n ta hăng lại c�ng hăng. B� tay để đợi bại vong, Giặc đ� tr� c�ng lực kiệt, Chẳng đ�nh m� người chịu khuất, Ta đ�y mưu phạt t�m c�ng. Tưởng ch�ng biết lẽ ăn năn N�n đ� thay l�ng đổi dạ Ngờ đ�u vẫn đương mưu t�nh Lại c�n chuốc tội g�y oan. Giữ � kiến một người, Gieo vạ cho bao nhi�u kẻ kh�c, Tham c�ng danh một l�c, Để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế: Thằng nh�i con Tuy�n đức động binh kh�ng ngừng Đồ nh�t nh�t Thạnh, Thăng đem dầu chữa ch�y Đinh m�i th�ng ch�n, Liễu Thăng đem binh từ Kh�u �n k�o lại Năm ấy th�ng mười, Mộc Thạnh chia đường từ V�n Nam tiến sang. Ta trước đ� điều binh thủ hiểm, Chặt mũi ti�n phong Sau lại sai tướng chẹn đường Tuyệt nguồn lương thực Ng�y mười th�ng t�m, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế Ng�y hai mươi, trận M� Y�n Liễu Thăng cụt đầu. Ng�y hăm lăm, b� tước Lương Minh đại bại tử vong Ng�y hăm t�m, thượng thư L� Kh�nh c�ng kế tự vẫn. Thuận đ� ta đưa lưỡi dao tung ph� B� nước giặc quay mũi gi�o đ�nh nhau Lại th�m qu�n bốn mặt v�y th�nh Hẹn đến giữa th�ng mười diệt giặc Sĩ tốt k�n người h�ng hổ Bề t�i chọn kẻ vuốt nanh Gươm m�i đ�, đ� n�i cũng m�n Voi uống nước, nước s�ng phải cạn. Đ�nh một trận, sạch kh�ng k�nh ngạc Đ�nh hai trận, tan t�c chim mu�ng. Cơn gi� to tr�t sạch l� kh�, Tổ kiến hổng sụt toang đ� vỡ. Đ� đốc Th�i Tụ l� gối d�ng tờ tạ tội, Thượng thư Ho�ng Ph�c tr�i tay để tự xin h�ng. Lạng Giang, Lạng Sơn, th�y chất đầy đường Xương Giang, B�nh Than, m�u tr�i đỏ nước Gh� gớm thay! Sắc phong v�n phải đổi, Thảm đạm thay! �nh nhật nguyệt phải mờ. Bị ta chặn ở L� Hoa Qu�n V�n Nam nghi ngờ khiếp v�a m� vỡ mật ! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, Qu�n Mộc Thạnh x�o l�n nhau Chạy để tho�t th�n. Suối L�nh C�u, m�u chảy th�nh s�ng, Nước s�ng nghẹn ng�o tiếng kh�c Th�nh Đan X�, th�y chất th�nh n�i, Cỏ nội đầm đ�a m�u đen. Cứu binh hai đạo tan t�nh, quay g�t chẳng kịp, Qu�n giặc c�c th�nh khốn đốn, cởi gi�p ra h�ng. Tướng giặc bị cầm t�, Như hổ đ�i vẫy đu�i xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể l�ng trời ta mở đường hiếu sinh M� Kỳ, Phương Ch�nh, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển m� vẫn hồn bay ph�ch lạc, Vương Th�ng, M� Anh, ph�t cho v�i ngh�n cỗ ngựa, về đến nước m� vẫn tim đập ch�n run. Họ đ� tham sống sợ chết m� h�a hiếu thực l�ng Ta lấy to�n qu�n l� hơn, để nh�n d�n nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kỳ diệu Cũng l� chưa thấy xưa nay. X� tắc từ đ�y vững bền Giang sơn từ đ�y đổi mới C�n kh�n bĩ rồi lại th�i Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ng�n năm vết nhục nh� sạch l�u Mu�n thuở nền th�i b�nh vững chắc �u cũng nhờ trời đất tổ t�ng linh thi�ng đ� lặng thầm ph� trợ;
Than �i ! Một cỗ nhung y chiến thắng, N�n c�ng oanh liệt ng�n năm Bốn phương biển cả thanh b�nh, Ban chiếu duy t�n khắp chốn. Xa gần b� c�o, Ai nấy đều hay.
|