
Saturday, April 13, 2013 trang ch�nh || lưu trữ || li�n lạc
|
Nh�n lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75. Trong b�i �Thắng v� bại�, từ kinh nghiệm chiến tranh ở Iraq, t�i n�u l�n nhận định: Thắng v� bại l� một vấn đề phức tạp, gắn liền với một chu cảnh (context) nhất định. C� khi người ta thắng một trận đ�nh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh; c� khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại. Cũng c� khi người ta thua hẳn một cuộc chiến tranh nhưng lại thắng trong h�a b�nh, sau đ�. Từ chuyện thắng v� bại, nh�n th�ng Tư, thử nh�n lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.
Li�n quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa l� miền Bắc Việt Nam) đ� thắng Mỹ. Bộ m�y tuy�n truyền Việt Nam l�c n�o cũng ra rả điều đ�. Ngay người Mỹ cũng tự nhận l� họ thua: Đ� l� cuộc chiến tranh đầu ti�n m� họ thua trận! Điều đ� đ� trở th�nh một chấn thương dữ dội đối với một si�u cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ kh�ng ngừng trăn trở. Chiến tranh Việt Nam, do đ�, với họ, trở th�nh một cuộc-chiến-chưa-kết-th�c (unfinished war) hoặc một chiến tranh v� tận (endless war) theo c�ch gọi của c�c học giả. Dĩ nhi�n, nhiều người nghĩ kh�c. Họ kh�ng chấp nhận họ thua trận với một trong ba l� do ch�nh. Một, một số người cho, về phương diện qu�n sự, qu�n đội Mỹ hầu như lu�n lu�n chiến thắng, hơn nữa, t�nh tr�n tổng số thương vong, họ bị thiệt hại �t hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ c� 50.000 người chết, ph�a miền Bắc, c� khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ ph�a người Việt Nam, ch�ng ta biết r� điều n�y: Trong đ� c� rất nhiều d�n sự ở cả hai miền!) Những người n�y cho họ chỉ thua tr�n mặt trận ch�nh trị; v� trong ch�nh trị, họ kh�ng thua Bắc Việt, họ chỉ thua� những m�n ảnh tivi hằng ng�y chiếu những cảnh chết ch�c gh� rợn ở Việt Nam trước mắt h�ng trăm triệu người Mỹ, từ đ�, l�m dấy l�n phong tr�o phản chiến ở khắp nơi. N�i c�ch kh�c, Mỹ kh�ng thua Bắc Việt: Họ chỉ thua ch�nh họ, nghĩa l� họ kh�ng thể tiếp tục k�o d�i chiến tranh trước sự thiếu ki�n nhẫn của quần ch�ng, trước quyền tự do ng�n luận v� ph�t biểu của quần ch�ng, trước nhu cầu ph�t triển kinh tế trong nước. Hai, một số người kh�c lại l� luận: Mặc d� Mỹ thua trận năm 1975, nhưng nh�n to�n cục, họ lại l� người chiến thắng. Một người Mỹ gốc Việt, Viet D. Dinh, gi�o sư Luật tại Đại học Georgetown University, tr�n tạp ch� Policy Review số th�ng 12/2000 v� 1/2001, quan niệm như vậy, trong một b�i viết c� nhan đề �How We Won in Vietnam� (tr. 51-61): �Ch�ng ta thắng như thế n�o tại Việt Nam.� �ng l� luận: Mỹ v� lực lượng đồng minh c� thể thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng tr�n một mặt trận kh�c lớn hơn v� cũng quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản tr�n to�n thế giới (tr. 53). Hơn nữa, c�ng với phong tr�o đổi mới tại Việt Nam cũng như việc Việt Nam tha thiết muốn b�nh thường h�a quan hệ ngoại giao với Mỹ, Mỹ cũng đ� thắng tr�n mặt trận l� tưởng v� thiết chế: Cuối c�ng th� Việt Nam cũng đ� theo Mỹ �t nhất một nửa: tự do h�a thị trường (C�n nửa kia, d�n chủ h�a th� chưa!) (tr. 61). Một số người kh�c lại cho, sau khi r�t qu�n khỏi Việt Nam, nh�n lại, người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau m�nh tr�n con đường tư bản h�a. Họ khẳng định: �Ch�ng ta đ� chiến thắng cuộc chiến tại Việt Nam bằng c�ch r�t qu�n ra khỏi nơi đ�.� Ba, một số người khẳng định dứt kho�t: Mỹ kh�ng hề thua Bắc Việt. Chiến thắng của miền Bắc v�o th�ng Tư 1975 l� chiến thắng đối với miền Nam chứ kh�ng phải đối với Mỹ. L� do đơn giản: L�c ấy, hầu hết l�nh Mỹ đ� r�t khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ c� khoảng nửa triệu l�nh ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Th�n, thực hiện ch�nh s�ch Việt Nam h�a chiến tranh, l�nh Mỹ dần dần r�t khỏi Việt Nam: Th�ng 8/1969, r�t 25.000 l�nh; cuối năm, r�t th�m 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, l�nh Mỹ ở Việt Nam chỉ c�n 27.000. Th�ng 3/1973, 2.500 người l�nh cuối c�ng rời khỏi Việt Nam. Từ đ�, ở Việt Nam, Mỹ chỉ c�n khoảng 800 l�nh trong lực lượng gi�m s�t đ�nh chiến v� khoảng gần 200 l�nh Thủy qu�n lục chiến bảo vệ T�a Đại sứ ở S�i G�n. Trong trận chiến cuối c�ng v�o đầu năm 1975, l�c Bắc Việt tiến v�o S�i G�n, kh�ng c� cuộc giao tranh n�o giữa Việt Nam v� Mỹ cả. Ch�nh v� vậy, một số người Mỹ đặt c�u hỏi: Tại sao c� thể n�i l� ch�ng ta thua trận khi ch�ng ta đ� thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đ�? C� thể t�m tắt lập luận thứ ba ở tr�n như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ kh�ng thua cuộc. Một số người phản b�c lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức l� kh�ng ho�n th�nh được mục ti�u m�nh đặt ra l�c khai chiến; kh�ng ho�n th�nh mục ti�u ấy cũng c� nghĩa l� thua cuộc. Kh�ng c� g� kh�c nhau cả. Nhưng ở đ�y lại nảy ra một vấn đề: Mục ti�u Mỹ đặt ra l�c tham gia v�o chiến tranh Việt Nam l� g�? C� hai mục ti�u ch�nh: Một, gi�p đỡ ch�nh quyền Việt Nam Cộng H�a tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc. Hai, ngăn chận l�n s�ng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, v� từ đ�, to�n bộ v�ng Đ�ng Nam �. Tập trung v�o mục ti�u thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt Nam. Đ� l� điều kh�ng thể chối c�i được: cuối c�ng, v�o ng�y 30/4/1975, ch�nh quyền Việt Nam Cộng H�a đ� sụp đổ. Tuy nhi�n, xin lưu �: trong hai mục ti�u tr�n, mục ti�u thứ hai mới l� quan trọng nhất. Khi l�nh Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ lu�n lu�n được nhắc nhở đến mục ti�u thứ hai: �Nếu ch�ng ta kh�ng đến đ�y để ngăn chận sự b�nh trướng của chủ nghĩa Cộng sản, ch�ng ta c� thể sẽ phải chiến đấu chống lại n� ở San Francisco sau n�y.� Mục ti�u đầu, nhằm x�y dựng một chế độ d�n chủ kh�ng Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến. C� thể n�i mục ti�u thứ nhất được đặt ra để cụ thể h�a mục ti�u thứ hai. N�i c�ch kh�c, ch�nh v� muốn ngăn chận sự b�nh trướng của chủ nghĩa Cộng sản, Mỹ mới nhảy v�o gi�p ch�nh quyền miền Nam. Mục ti�u thứ nhất, như vậy, chỉ l� hệ luận của mục ti�u thứ hai. N� chỉ l� mục ti�u phụ. Li�n quan đến mục ti�u thứ hai, n�n nhớ đến thuyết Domino vốn xuất hiện từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, v� được xem l� nền tảng l� thuyết cho c�c ch�nh s�ch đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập ni�n 1960 trở đi. Dựa tr�n thuyết Domino, ch�nh phủ Mỹ tin l�: Nếu Đ�ng Dương rơi v�o tay Cộng sản, Miến Điện v� Th�i Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như ngay tức khắc. Sau đ�, sẽ rất kh� khăn, nếu kh�ng muốn n�i l� bất khả, để cho Indonesia, Ấn Độ v� c�c nước kh�c tiếp tục nằm ngo�i quỹ đạo thống trị của Cộng sản X� Viết.� Nghĩ như thế, ch�nh phủ Mỹ đ� xem Miền Nam như một tiền đồn để ngăn chận hiểm họa cộng sản. Nếu chỉ nh�n v�o mục ti�u thứ hai n�y � mục ti�u ngăn chận l�n s�ng Cộng sản ở Đ�ng Nam � � kh�ng thể n�i l� ch�nh phủ Mỹ thất bại. Ngược lại. Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon, Mỹ đ� th�nh c�ng ở ba điểm: Một, bước đầu b�nh thường h�a quan hệ ngoại giao giữa hai nước để, tuy chưa hẳn l� bạn, họ cũng kh�ng c�n th� nghịch với nhau như trước nữa; hai, kho�t s�u mối m�u thuẫn giữa Trung Quốc v� Li�n X� để hai nước đứng đầu khối Cộng sản n�y kh�ng c�n thống nhất với nhau; v� ba, l�m giảm bớt sự ủng hộ v� trợ gi�p của Trung Quốc đối với Bắc Việt. Với ba sự th�nh c�ng ấy, Mỹ an t�m được ba điều: Một, khi Trung Quốc v� Li�n X� đ� bị ph�n h�a, khối Cộng sản kh�ng c�n mạnh v� do đ�, cũng kh�ng c�n qu� nguy hiểm như trước. Hai, khi khối Cộng sản kh�ng c�n mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy tr� quan hệ h�a b�nh với Mỹ để ph�t triển kinh tế v� tranh gi�nh ảnh hưởng với Li�n X�, Trung Quốc sẽ kh�ng c�n t�ch cực �xuất cảng c�ch mạng� ở c�c nước kh�c trong v�ng Đ�ng Nam �. V� ba, như l� hệ quả của hai điều tr�n, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam v� ngay cả khi cả Campuchia v� L�o đều rơi v�o tay Cộng sản th� chủ nghĩa Cộng sản cũng kh�ng thể ph�t triển sang c�c nước kh�c như điều họ từng lo sợ trước đ�. Với ba sự an t�m tr�n, Mỹ quyết định r�t qu�n ra khỏi Việt Nam. Với họ, mục ti�u thứ hai, tức mục ti�u quan trọng nhất, đ� ho�n tất th� mục ti�u thứ nhất trở th�nh v� nghĩa. Miền Nam chỉ c�n l� một nước cờ chứ kh�ng phải l� một v�n cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng cả một v�n cờ.
Thắng ở ba điểm: Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản kh�ng hề ph�t triển ra khỏi bi�n giới L�o v� Campuchia. C�c nước l�ng giềng của Đ�ng Dương vẫn ho�n to�n b�nh an trước hiểm họa Cộng sản. Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa Cộng sản ở � ch�u kh�ng những kh�ng mạnh hơn, m� ngược lại, c�n yếu hơn hẳn. Yếu ở rất nhiều phương diện. Về kinh tế, họ ho�n to�n kiệt quệ. Về qu�n sự, họ li�n tục đ�nh nhau. Về đối nội, họ ho�n to�n đ�nh mất niềm tin của d�n ch�ng, từ đ�, dẫn đến phong tr�o vượt bi�n v� vượt biển rầm rộ l�m chấn động cả thế giới. Về đối ngoại, họ ho�n to�n bị c� lập trước thế giới với những h�nh ảnh rất xấu: Ở Khmer Đỏ l� h�nh ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam l� h�nh ảnh của sự độc t�i v� t�n bạo; ở Trung Quốc, sự chuy�n chế v� lạc hậu. Cuối c�ng, về � thức hệ, ở khắp nơi, từ tr� thức đến d�n ch�ng, người ta bắt đầu hoang mang ho�i nghi những gi� trị v� những t�n l� của chủ nghĩa x� hội: Tầng lớp tr� thức khuynh tả T�y phương, trước, một mực khăng khăng b�nh vực chủ nghĩa x� hội; sau, bắt đầu l�n tiếng ph� ph�n sự độc t�i v� t�n bạo của n�. Một số tr� thức h�ng đầu, như Jean-Paul Sartre, trở th�nh những người nhiệt t�nh gi�p đỡ những người Việt Nam vượt bi�n. Ba, v�o năm 1990, với sự sụp đổ của Li�n X�, của bức tường Berlin v� của hệ thống x� hội chủ nghĩa ở Đ�ng �u, Mỹ to�n thắng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Cộng sản. V�n cờ k�o d�i nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa Cộng sản v� chủ nghĩa tư bản đ� kết th�c. Nh�n v�o ba sự th�nh c�ng ấy, kh� c� thể n�i Mỹ đ� thua trận ở Việt Nam. Lại c�ng kh�ng thể n�i l� miền Bắc Việt Nam đ� thắng Mỹ. Cũng cần lưu � đến những sự thay đổi trong bản chất của chiến tranh. Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết c�c chiến lược gia, khi nghĩ về chiến tranh, đều cho c�i đ�ch cuối c�ng l� phải chiến thắng một c�ch tuyệt đối. Ti�u biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy l� cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất v� lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ th� của phe Đồng minh đều tuy�n bố đầu h�ng. Ranh giới giữa thắng v� bại rất r�. R� nhất l� ở Nhật Bản. Sức t�n ph� kinh hồn của hai tr�i bom nguy�n tử do Mỹ thả xuống Hiroshima v� Nagasaki đ� chứng tỏ sức mạnh v� địch kh�ng thể chối c�i được của người chiến thắng. Tuy nhi�n, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh v� c�ng với n�, � nghĩa của chiến thắng, ho�n to�n thay đổi. Trong chiến tranh lạnh, cả Mỹ lẫn Li�n X� đều c� bom nguy�n tử. L�c n�o cũng muốn ti�u diệt nhau nhưng cả hai đều biết rất r� c�i điều Albert Einstein từng cảnh c�o: �T�i kh�ng biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đ�nh bằng g�, nhưng trong chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ c� thể đ�nh nhau bằng gậy v� đ�.� Th�nh ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật nhiều, thật nhiều vũ khi nguy�n tử vừa biết trước l� ch�ng sẽ kh�ng được sử dụng. Kh�ng n�n được sử dụng. Kh�ng thể được sử dụng. Để tr�nh điều đ�, chiến tranh to�n diện (total war) biến th�nh chiến tranh giới hạn (limited war); chiến tranh thế giới biến th�nh chiến tranh khu vực, ở một số điểm n�ng n�o đ�. � nghĩa của c�i gọi l� chiến thắng, do đ�, cũng đổi kh�c: b�n cạnh c�i thắng/bại về qu�n sự c� c�i thắng/bại về ch�nh trị v� b�n cạnh c�i thắng/bại c� t�nh chiến thuật c� c�i thắng/bại c� t�nh chiến lược. Với những thay đổi ấy, chuyện thắng hay bại lại c�ng trở th�nh phức tạp hơn. Phần kết luận, c� hai điểm t�i xin n�i cho r�: Thứ nhất, t�i chỉ muốn t�m hiểu một sự thật lịch sử chứ kh�ng hề muốn b�nh vực cho Mỹ. Thứ hai, d� Mỹ thắng hay bại, sau biến cố th�ng 4/1975, miền Nam vẫn l� nạn nh�n. Tr�n phạm vi quốc tế, ngo�i miền Nam Việt Nam, Đ�i Loan l� một nạn nh�n kh�c, tuy kh�ng đến nỗi bất hạnh như ch�ng ta. |