Sunday, February 06, 2011                                                                  trang ch�nh  ||    lưu trữ    ||   li�n lạc

 

Tết đến, nghĩ về... BẢN HIẾN PH�P ĐẦU TI�N CỦA D�N TỘC QUA BIỂU TƯỢNG CHIẾC B�NH CHƯNG
V� Đại T�n

  Qu� vị n�o thử tạm giam m�nh trong một ph�ng k�n nhỏ kh�ng c� �nh đ�n, kh�ng �nh mặt trời, trần trụi c� đơn, mỗi ng�y chỉ được ăn hai bữa với ch�n cơm pha nước muối, trong v�ng 1 tuần lễ, th� c� lẽ mới hiểu được phần nhỏ n�o về sự th�m kh�t kh�ng kh� gia đ�nh, hơi thở hạnh ph�c v� cuộc sống của con người - nhất l� trong những dịp Tết đến. T�i đ� phải sống như vậy trong suốt 3.697 ng�y đ�m � 10 năm 1 th�ng 17 ng�y - chưa kể đến gần một trăm lần bị tra tấn d� man. Những năm đầu bị giam, tuy ngoại cảnh mỗi ng�y như mọi ng�y, nhưng khi biết Tết đến th� l�ng t�i cũng xốn xang, gợi nhớ nhiều kỷ niệm ri�ng, thương về gia đ�nh bặt tin, h�nh tr�nh chưa trọn. Nhưng những năm sau, th�n x�c kiệt quệ v� thiếu dinh dưỡng, đầu �c chỉ c�n cố nghĩ đến c�ch sinh tồn để đối ph� với ho�n cảnh đơn độc, t�i kh�ng c�n mong nhớ g� về Tết. Tự tập luyện cho m�nh c�ch sắp xếp v�o kho �đ�ng lạnh� tr� �c những g� kh�ng l� hiện thực. (Cũng như b�y giờ, t�i tự �đ�ng lạnh� v� nhiễm trước những xuy�n tạc d�m pha của những kẻ �c t�m). Chỉ c� hai chuyện v�o dịp Tết trong t� t�i c�n nhớ r�. Li�n quan đến việc gi�o dục tuổi trẻ dưới chế độ cộng sản m� họ gọi l� �trăm năm trồng người�, v� việc cố gắng tồn tại dưới tận c�ng đ�y vực để nu�i hy vọng c�n sống, tiếp tục cuộc h�nh tr�nh t�m nguyện.

Tết đầu ti�n v�o năm 1982 tại trại t� Thanh Liệt ngoại � H� Nội, (t�i bị bắt v� bị chuyển từ Paks� (L�o) về giam tại đ�y v�o cuối th�ng 10.1981), t�i lạc lo�i ngay ch�nh tr�n qu� hương m�nh l� Việt Nam n�i chung. Nh�n qua song sắt � cửa nhỏ x� lim, t�i thấy một b� g�i khoảng 4-5 tuổi chạy chơi qua lại. T�i nhớ đến con t�i l� Cu-Lỳ, hai mẹ con bơ vơ kh�ng biết sống ra sao tại �c. Ch�u g�i đến gần � cửa nh�n t�i, cười ng�y thơ. C� lẽ l� con của một c�n bộ cai t� n�o đ�. Chiều n�o cũng vậy, ch�u đến �thăm� t�i, l�u lo n�i chuyện, v� đưa mấy mẩu giấy b�o vụn nhờ t�i xếp m�y bay, t�u thủy, cười thật dễ thương. Ng�y Tết, ch�u cho t�i một c�y kẹo gừng. Rồi t�i kh�ng c�n gặp ch�u nữa. Khi t�i đ� ở t� 5 năm, cũng v�o dịp Tết, t�i lại thấy một c� g�i khoảng 10 tuổi đi qua ph�ng giam. Đ�ng l� ch�u g�i trước đ�y. L�ng t�i nao nao v� gọi ch�u. C� g�i nh�n t�i kh�ng n�i g� cả, bỏ đi. T�i ngậm ng�i, c� đơn, n�p s�t đầu v�o song sắt � cửa, nh�n theo, cố t�m lại nụ cười b� thơ đ� mất rồi.

Khi t�i ở t� đến năm thứ 10, ngẫu nhi�n cũng v�o dịp Tết, t�i lại thấy một thiếu nữ khoảng 15 tuổi đi qua ph�ng t�i. T�i đ� bị nhốt ri�ng một x� lim suốt 10 năm, kh�ng chuyển ph�ng, kh�ng được ra ngo�i lao động, bắt đầu đứng kh�ng vững, v� nếu c� kiếng th� c� lẽ cũng kh�ng d�m soi nh�n mặt m�y m�nh ra sao. Nh�n c� g�i đ� lớn, đi qua chầm chậm, t�i nhận r� n�t mặt kh�ng c� nhiều thay đổi, t�i mừng qu� gọi lớn: �Ch�u ơi, c�n nhớ �ng kh�ng?�. L�c ấy kh�ng c� c�n bộ bảo vệ đi tuần tra, c� lẽ l� dịp Tết n�n t� được ch�t thong thả hơn. Bất ngờ, c� ta dừng lại, trừng mắt nh�n t�i v� n�i: �C�m mẹ c�i mồm lại, đồ phản động, ngụy qu�n ngụy quyền!�. Rồi lạnh l�ng bỏ đi. T�i thực sự đau l�ng, ngỡ ng�ng chẳng biết n�i sao. Cũng l� một c� g�i, v�o thế hệ con t�i, l�c 5 tuổi th� vui cười ng�y thơ, nhờ t�i xếp giấy l�m đồ chơi, khi l�n 10 tuổi th� im lặng bỏ đi, v� đến l�c th�nh thiếu nữ 15 tuổi th� lại mắng v�o mặt một �ng t� gi� l� �C�m mẹ c�i mồm lại, đồ phản động!� C� lẽ ch�u g�i n�y kh�ng hiểu nghĩa của những chữ �phản động, ngụy qu�n ngụy quyền� l� g�, nhưng lệnh tr�n đưa xuống bắt học thuộc l�ng từ trong lớp, n�n cứ n�i như m�y. Nếu c� ai đọc được b�i luận văn của một học sinh trung học trong nước đ� viết �Nguyễn Huệ l� dũng sĩ diệt Mỹ cứu nước�, hoặc một b�i kh�c �Th�y Kiều nhảy xuống s�ng Tiền Giang tự vẫn, được một c�n bộ vớt l�n v� kết nạp cho v�o Đảng ta�... th� đừng lấy l�m lạ v� đừng cho l� t�i �b�i b�c chế độ�. T�i đ� được đọc nhiều b�i viết như vậy từ trong nước gửi ra sau n�y. Chỉ c� chế độ cộng sản mới �trồng người� như vậy, ti�u diệt nghĩa-t�nh giữa con người với nhau, v� xuy�n tạc Lịch Sử, Văn Học.
Th�m một chuyện Tết trong t�. C� nhiều người (c� kẻ d� bĩu, c� người �ng�y thơ�) � chưa từng bị t� dưới chế độ cộng sản - lắc đầu kh�ng tin những g� anh em t� nh�n ch�nh trị ch�ng t�i kể hoặc viết lại, cho rằng anh em ch�ng t�i đ� phịa th�m, cường điệu tả o�n để l�m động lực đấu tranh hoặc xin t�nh thương hại. C� đ�i khi họ lại dửng dưng ph� ph�n: �Nhục nh� v� đ�i khổ như thế, tại sao kh�ng chết đi m� cố sống để l�m g�?� Ch�ng t�i đ� tự trả lời cho ch�nh m�nh: �Mẹ Việt Nam đ�u c� cần tất cả những đứa con y�u phải chết đi, phải cố sống để tiếp tục con đường đ� chọn, v� l�m nh�n chứng về một chế độ v� đạo nhất trong lịch sử D�n Tộc�.

 V�o dịp Tết năm 1985 trong t�, d� t�i đ� qu�n tất cả hương vị về Tết, chung quanh t�i chẳng c� g� đ�ng để gợi nhớ, nhưng đ�m giao thừa năm n�y l�ng t�i bỗng dưng rộn r�ng khi nghe c� tiếng ph�o lẹt đẹt nổ b�n kia v�ch tường trại t�, x� Thanh Liệt, thuộc huyện Thanh Tr�. (Trước năm 1975, t�i c� quen th�n với nhiều bạn từ miền Bắc di cư v�o Nam năm 1954, cho biết l� huyện Thanh Tr� đ� nổi tiếng về sản xuất b�nh cuốn. N�i đến �B�nh cuốn Thanh Tr� th� ai cũng biết l� ngon đặc biệt. Tiện đ�y, t�i xin viết th�m v�i d�ng về hơn một triệu người đ� dũng cảm l�a qu� cha đất tổ, di cư v�o Nam. Đồng b�o di cư l� những chứng nh�n sống về chế độ cộng sản bạo t�n tại miền Bắc, v� h�o kh� chống cộng từ những địa danh B�i Chu, Ph�t Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm... đ� được ghi v�o lịch sử chống cộng của D�n Tộc với những n�t v�ng son, lẫm liệt, lưu truyền cho hậu thế. Kh�ng ai được quyền mạ lỵ l�n s�ng di cư anh h�ng n�y, cũng như b�y giờ kh�ng ai được quyền hạ nhục l�n s�ng di tản của đồng b�o ta sau ng�y quốc nạn 30.4.1975). Dịp Tết n�y c� một số t� mới, d�n đi học hoặc lao động từ Li�n X�, Đ�ng �u, trở về, mang theo h�ng lậu bị bắt v�o giam. Suốt ng�y đ�m đ�m t� n�y la lối om s�m, k�u gọi nhau ơi ới từ ph�ng n�y sang ph�ng kh�c. C� thể đều l� đ�m �c.o.c.c.� (con �ng ch�u cha) n�n mới được đi �lao động quốc tế� hoặc �du sinh� để kiếm ăn, chẳng sợ cai t�, chỉ bị tạm giam v�i ng�y, lại c�n được gia đ�nh thăm nu�i tiếp tế đầy đủ. V�o đ�m Giao Thừa, c� tiếng the th� vang l�n, giọng �H� Nội mới� thật kh� nghe, ph� trương đểu c�ng: �Ti�n sư bố n�, tiếp tế b�nh chưng l�m g� lắm thế. Mười mấy chiếc như thế n�y th� �ng l�m sao ăn cho hết! �ng chỉ ăn nh�n thịt b�n trong cho vui, c�n th� vứt mẹ hết ra cống cho chuột ăn�. T�i nằm nghe m� cồn c�o cả ruột gan v� đ�i, v� lạnh, nuốt nước miếng ừng ực. Hoa cả mắt, tưởng chừng như thấy mấy c�i b�nh chưng đong đưa trước mặt. V�i tay nắm bắt, chỉ thộp được mấy con muỗi. Mấy ng�y Tết n�y, c� một c�n bộ quản gi�o biết t�i kh�o tay v� hội họa, nhờ t�i l�m mấy loại hoa giả bằng giấy bạc bao thuốc l� để trang tr� Tết. T�i thường tự tạo ra nhiều �nghề� để kiếm thuốc l�o h�t. Th�ng thường, t�i d�ng ch�t cơm để d�n hoa giấy, nhưng dại g�, cơm t� c�n kh�ng đủ ăn, hơi đ�u m� ph� phạm. T�i nghĩ ngay đến nếp b�nh chưng. T�i n�i với t�n c�n bộ l� nếu c� x�i nếp để d�n hoa giấy th� �cực kỳ tốt�, c� t� n�o dư thừa b�nh chưng th� lấy cho t�i một �t. T�n c�n bộ nghe n�i, trả lời ngay: �Thoải m�i, thoải m�i, tưởng g� chứ b�nh chưng th� thiếu g�, c�c buồng trong trại được tiếp tế nhiều lắm cơ�. V� t�i đ� được một g�i nếp b�nh chưng to, ai đ� ăn hết nh�n đậu b�n trong rồi. T�i để d�nh một �t để d�n hoa giấy, c�n lại th� đợi đến khuya mở g�i b�nh chưng c�n thừa ra, gỡ sạch những lớp x�i c�n d�nh chặt v�o tờ giấy b�o, cắn nhẹ từng miếng, ăn trong b�ng tối lờ mờ, v� ứa nước mắt. Hương vị Tết mọn trong t�. T�i nhớ đến gia đ�nh vợ con b�n �c chẳng biết ra sao, thương tủi cho th�n m�nh, c� đơn quạnh quẽ giữa hai bờ tử-sinh. B�n kia x�m, nh� ai đang vặn to một băng nhạc duy nhất m� t�i được nghe đi nghe lại từ suốt mấy năm qua tiếng h�t của Thanh Th�y với b�i Nửa Đ�m Ngo�i Phố. �Buồn v�o hồn kh�ng t�n...�. �Nhạc v�ng�, c� lẽ ph�t ra từ nh� của t�n c�n bộ n�o đ� đ� đem từ miền Nam ra như l� �chiến lợi phẩm�. T�i đặt lại lời ca, lẩm nhẩm h�t một m�nh, đ�n Tết t�. �Buồn v�o hồn kh�ng t�n, thức giấc nửa đ�m, nhai b�nh chưng một m�nh... �i b�nh chưng đời t�...�.

Tết năm đ�, t�i c� tạm đủ hương vị: b�nh chưng thừa, nhạc �v�ng� r�, hoa giấy l�m bằng bao thuốc l�, v�... c� cả nước mắt c� đơn. T�i đau l�ng trong ho�n cảnh cay nghiệt n�y, nhưng tự tha thứ cho m�nh v� đấy kh�ng phải l� nỗi nhục lớn trong lẽ sinh tồn của một người t� bị biệt giam, kh�ng thẹn với lương t�m v� ch�nh kh�. Cố sống để tiếp tục c�n đường c�n dang dở với mộng chưa tr�n. D� sao, t�i cũng thấy �nhợn� trong l�ng, thương m�nh v� thương cả D�n Tộc đang bị đọa đ�y xuống tận c�ng khổ nạn bởi một chế độ phi nh�n. C�ng thương lại c�ng t�m mọi c�ch cố tồn tại, miễn kh�ng l�m những điều h�n hạ � danh, để mong một ng�y nếu c�n sống sẽ tiếp tục đ�ng g�p c�ng sức v� kinh nghiệm đời c�ng To�n D�n sớm quang phục qu� hương. Miếng b�nh chưng Tết trong t� n�y l� một trong h�ng trăm tư liệu t�i th�m v�o h�nh trang hiện tại để tiếp bước đấu tranh.
T�i vừa nhai miếng b�nh chưng thừa vừa mi�n man nhớ về những ng�y Tết xa xưa v� tại hải ngoại. Lại nhớ đến những c�u thơ t�i từng viết vội trong cuốn sổ tay mang theo tr�n c�c nẻo đường h�nh qu�n thuở c�n binh lửa.

Tiếng th�t Đống Đa h�ng vọng
Thăng Long lồng lộng tinh kỳ.
� k�a! ngựa h� voi đi
Dấu xưa ho�ng sử c�n ghi b�y giờ.
V� đ�u hoa gấm th�nh Thơ
V� ai xin hẹn dưới cờ tuốt gươm...

Trong b�ng tối ph�ng giam, t�i thấy hiện ra trước mắt những bữa cơm Tết được dọn ra với b�ng d�ng cha mẹ v� anh chị em t�i đang qu�y quần trong một căn nh� n�p m�nh sau lũy tre xanh ven s�ng Thu Bồn. �m hưởng của những m�a Xu�n qu� hương lại về với t�i. Theo phong tục cổ truyền, kh�ng c� một gia đ�nh Việt Nam n�o, d� đang sống lưu vong hoặc tại qu� nh�, m� kh�ng c� những bữa ăn với b�nh chưng v� dưa h�nh trong dịp Tết. Ngoại trừ những gia đ�nh qu� cơ cực đ�i ngh�o, v� những kẻ lang thang �lạnh l�ng nh�n thi�n hạ đ�n Xu�n sang�. Mơ về những chiếc b�nh chưng xưa, trong bữa ăn hoặc được trưng b�y tại c�c quầy thực phẩm trong si�u thị Việt Nam ở hải ngoại, t�i chợt thấy m�u sắc qu� hương đạm bạc qua vỏ bọc l� chuối xanh tương phản với cảnh tượng văn minh h�o nho�ng v� tr�ng lệ nơi xứ người. Chiếc b�nh chưng đ�ng lẽ được đặt tr�n m�m gỗ trong một kh�ng gian phảng phất hương trầm ng�y Tết, b�y giờ lại được sắp xếp trong lồng k�nh s�ng lo�ng, si�u thị m�y lạnh, l�m cho t�i c� � nghĩ kh�ng biết chiếc b�nh chưng hay l� m�nh đang lạc lo�i đ�u đ�y? Nhưng d� sao, l�ng t�i kh�ng khỏi rộn r�ng nhớ đến biết bao kỷ niệm đ� qua trong đời, mỗi độ Xu�n về Tết đến, v� d�ng suy tưởng lại đi xa hơn, về với cội nguồn D�n Tộc.

T�i kh�ng c� đủ khả năng v� kiến thức để lạm b�n s�u xa về Văn Hiến D�n Tộc, nhưng cũng đ� g�p nhặt được đ�i điều suy luận cao qu� từ c�c bậc Cha �ng, đặc biệt về biểu tượng chiếc b�nh chưng cổ truyền. Xin ghi nhớ với tấc l�ng ho�i niệm của một con d�n lu�n hướng về Quốc Tổ, d� đang sống trong tận c�ng đ�y vực lao t� n�y.

Ng�y nay, với d�ng thời gian cuồn cuộn chảy theo mệnh nước nổi tr�i, c� lẽ vẫn c�n một số người c�ng thế hệ với t�i, v� nhất l� đối với Tuổi Trẻ Thời Đại, kh�ng hề biết đến biểu tượng tinh thần của D�n Tộc g�i trọn trong chiếc b�nh chưng. Được dọn l�n th� ăn, ăn nhiều th� ch�n, v� trong c�c sinh hoạt ng�y Tết của cộng đồng cũng như của gia đ�nh tại hải ngoại, đi đ�u cũng thấy b�nh chưng. �t người tự đặt cho m�nh c�u hỏi: �Tại sao phải c� b�nh chưng trong những ng�y Tết ?�, v� kể từ ng�y nền Văn Hiến D�n Tộc th�nh nguồn văn tự đến nay, đ� qua hơn bốn ngh�n năm rồi, biểu tượng tinh thần của n�i giống Lạc Việt vẫn c�n thể hiện qua nhiều h�nh thức kh�ng hề bị mai một với thời gian. Nghĩa T�nh vẫn c�n tiềm t�ng đ�u đ�, mặc d� tại hải ngoại cuộc sống vật chất đang cuốn xoay ch�ng ta v�o hướng kh�ng phải phương Đ�ng v� tại qu� nh� th� chế độ cộng sản đang cố t�nh hủy diệt cội nguồn văn h�a D�n Tộc.

Trước hết, chiếc b�nh chưng được g�i theo h�nh VU�NG, tượng trưng cho h�nh tượng của ĐẤT. Đất ở đ�y c� nghĩa l� mảnh Đất từ chốn ch�n nhau cắt rốn, mẫu ruộng, thửa vườn, chứ kh�ng phải l� quả đất h�nh tr�n m� khoa học nh�n loại đ� chứng minh. H�nh VU�NG c�n mang � nghĩa của sự VU�NG TR�N thủy chung, của L�ng Người đối với nhau giữa nh�n quần x� hội, v� tr�n hết, đối với Qu� Cha Đất Tổ. L� chuối m�u XANH tượng trưng cho m�u HY VỌNG, một m�a Xu�n thanh khiết. Những sợi d�y cột bằng lạt tre, n�i l�n nghĩa RƯỜNG CỘT bảo vệ non s�ng qua lũy tre l�ng bao bọc L�ng Người. Những hạt nếp m�u TRẮNG, thực phẩm nu�i sống giống n�i như l�a gạo, trong tinh thần trong s�ng, keo sơn gắn b� với nhau, kh�ng gợn m�u Đen của �c Nghiệp, của l�ng người vốn dĩ đầy rẫy Tham S�n Si. Những hạt đậu xanh đ� được đ�i vỏ th�nh m�u V�NG l�m nh�n ở giữa chiếc b�nh l� m�u của H�A B�NH NH�N �I, v� những l�t thịt mỡ tượng trưng cho niềm mơ ước về một cuộc sống sung t�c, thịnh vượng. N�i sao cho c�ng về � nghĩa cao th�m của nền Văn Hiến Lạc Việt, những ẩn dụ tinh thần m� �ng Cha ch�ng ta đ� để lại cho con ch�u ngh�n sau trong nghĩa vụ bảo tồn v� ph�t huy truyền thống D�n Tộc?

Ngo�i c�c � nghĩa về m�u sắc v� h�nh tượng, ch�ng ta c� thể t�m hiểu th�m những ẩn dụ tinh thần kh�c, kh�ng phải do c�c thế hệ hậu sinh cưỡng đặt hoặc suy tưởng th�m m� ch�nh l� do sự t�m t�i nghi�n cứu của c�c bậc thức giả về cội nguồn D�n Tộc. V� dụ như việc cắt b�nh chưng chẳng hạn. Thời nay, người ta thường cắt bằng dao, nhưng ch�nh ra, theo đ�ng c�ch thức cổ truyền th� phải cắt bằng ch�nh những sợi d�y lạt tre g�i b�nh như c�c b� mẹ gi� thường l�m một c�ch thận trọng v� đều tay, chia c�c phần b�nh bằng nhau. Theo t�i nghĩ, c� lẽ c�c Cụ ng�y xưa ki�ng kh�ng muốn d�ng dao để cắt b�nh v� nỡ n�o d�ng dao để cắt ch�nh miếng ĐẤT đ� nu�i dưỡng m�nh, nỡ n�o cắt ruột cắt gan m� kh�ng đau l�ng? Lại c�n nữa, c�c phần b�nh chia đều nhau mang th�m � nghĩa của sự C�NG BẰNG, ph�n chia điền thổ cho d�n. Phần ngo�i l� ĐẤT TƯ HỮU, gọi l� Tư Điền, bao quanh phần giữa l� ĐẤT C�NG HỮU, gọi l� C�ng Thổ. Mọi người d�n đều c� đất ri�ng để canh t�c mưu sinh, c�n phần C�ng Thổ l� để cho L�ng X� phụ tr�ch cai quản, mọi người chung nhau c�y cấy, lấy lợi tức m� thờ c�ng Tổ Ti�n chung, lo việc cho d�n cho nước, tựa hồ như một loại thuế m� mọi người đều đồng l�ng đ�ng g�p để chung lo việc an sinh x� hội với nhau, c�ng nhau đ�m bọc sau lũy tre l�ng. Sau n�y, qua nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều chế độ đ� ban h�nh ch�nh s�ch Cải C�ch Điền Địa, Người C�y C� Ruộng, Tư C�ng Hữu Lợi, đều do � nghĩa cao th�m ph�t xuất từ việc ph�n chia từng miếng b�nh chưng đều nhau. Đau l�ng thay, ng�y nay tr�n qu� hương ch�ng ta, tuy cũng c� những ng�y rộn rịp đ�n ch�o năm mới nhưng chế độ cai trị chỉ chuy�n về l� thuyết gi�o điều chứ tr�n thực tế th� người d�n ng�y c�ng V� Sản c�n tầng lớp thống trị th� tận hưởng của c�ng. Tinh thần C�ng Bằng giữa Tư Điền v� C�ng Thổ lưu truyền từ biểu tượng chiếc b�nh chưng đ� kh�ng c�n nữa. Đấy l� chưa kể tới thời kỳ Cải C�ch Ruộng Đất tang thương nhất của D�n Tộc m� người cộng sản đ� ph�ng tay, rập khu�n theo T�u Cộng, giết hại biết bao d�n l�ng v� tội, triệt ti�u mọi c�ng bằng x� hội sau lũy tre xanh, đảo ngược mọi t�n tri trật tự truyền thống về đạo đức của x�m l�ng, nền m�ng của qu� hương đất nước.

T�i nằm trong x� lim tăm tối trong đ�m Giao Thừa với t�m trạng nhớ nước, thương nh� v� thương ch�nh m�nh, như con chim lạc bầy đang quay đầu về n�i, t�m lại những m�a Xu�n D�n Tộc đ� qua. T�i đ� suy tưởng trong đ�m c� lạnh đến bản Hiến Ph�p đầu ti�n của D�n Tộc qua biểu tượng chiếc b�nh chưng, khi t�i đang ứa nước mắt thầm nhai mẩu b�nh chưng thừa để cố sinh tồn. M�u sắc thanh b�nh hạnh ph�c, ph� cường an lạc, Tư-C�ng đồng đều, đ�m bọc nhau m� sống trong x� hội c�ng chung n�i giống với Nghĩa Vu�ng Tr�n Chung Thủy, keo sơn gắn b� để bảo tồn nền Văn Hiến mu�n đời của D�n Tộc. Đấy l� lời căn dặn đến từ Quốc Tổ, đấy l� bản Hiến Ph�p bất th�nh văn nhưng đậm đ� t�nh tự D�n Tộc v� Lẽ C�ng Bằng trong mọi cuộc sống của con người m�i đến h�m nay v� ng�y mai con ch�u. Nhưng ch�nh con người đ� bỏ qu�n v� ch�nh con người cộng sản đ� cố t�nh hủy diệt tinh thần cao thượng n�y. T�i lại chợt nhớ đến một trang huyền sử với lời dặn d� của Tổ Lạc Long Qu�n n�i c�ng c�c con khi n�o gặp cơn nguy biến th� cứ gọi �Bố ơi, Bố đi đằng n�o, xin h�y về cứu ch�ng con!�, tức th� uy linh cảm ứng, Cha Rồng sẽ hiện về ngay. Giờ đ�y, trong nỗi niềm suy tưởng về tinh thần mấy ngh�n năm Văn Hiến của D�n Tộc qua chiếc b�nh chưng ng�y Tết, trong sự lo sợ về hiểm họa diệt vong của giống n�i qua suy đồi đạo l� v� bao cảnh bất c�ng, qua sự thần phục quỳ lụy của chế độ cộng sản trước bọn b�nh trướng phương Bắc, ch�ng ta n�n c�ng nhau khấn nguyện �Xin Bố h�y về cứu ch�ng con�, sau khi đ� tr�n t�m tận lực trong nghĩa vụ l�m người y�u Nước ch�n ch�nh.

V� Đại T�n
(�c Ch�u)