
Tuesday, November 22, 2011 trang ch�nh || lưu trữ || li�n lạc
|
Từ b�i �Đ�p lời s�ng n�i� của Tr�c Hồ: Nh�n lại 2 b�i �Tiếng gọi sinh vi�n� v� �Tiến qu�n ca�
Như một hiện tượng bất ngờ của lịch sử, trong những th�ng cuối h�, đầu thu năm 2011, những biến cố li�n hệ tới việc bảo vệ chủ quyền l�nh thổ của Việt Nam trước nạn x�m lấn của người T�u đ� đồng loạt v� li�n tiếp xẩy ra kh�ng ri�ng ở trong nước m� lu�n cả ở Hải Ngoại v� rộng hơn nữa l� ở khắp nơi c� ngư�i Việt cư ngụ. Biển Đ�ng c�ng với c�c Quần Đảo Ho�ng Sa v� Trường Sa ở ngo�i khơi, c�c cao điểm ở bi�n giới ph�a bắc, tr�n đất liền, c�c khu rừng đầu nguồn, Th�c Bản Giốc, Ải Nam Quan, c�c khu kỹ nghệ mới do người T�u tr�ng thầu x�y dựng dọc theo l�nh thổ của quốc gia với h�ng chục ng�n, c� thể tới h�ng trăm ng�n v� hơn nữa nh�n c�ng họ mang từ Trung Quốc sang đ� trở th�nh đề t�i cho c�c cuộc biểu t�nh tranh đấu, c�c cuộc thảo luận hay phản đối ch�nh s�ch của nh� cầm quyền Cộng Sản H� Nội c�ng đối t�c của họ l� Trung Hoa Cộng Sản. C�ng h�m mang t�n v� chữ k� của �ng Phạm Văn Đồng, người đ� nắm chức thủ tướng trong ch�nh quyền Cộng Sản Việt Nam l�u nhất trong lịch sử, đ� trở th�nh trọng t�m của sinh hoạt b�o ch� v� truyền th�ng cũng như c�c cuộc tranh luận của kh�ng ri�ng người Việt m� c�n cả quốc tế nữa. Tội danh bị coi như l� b�n nước của �ng thủ tướng họ Phạm v� những kẻ đồng l�a với �ng cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam sau một thời gian d�i được giấu k�n, đến thời điểm n�y đ� được những người li�n hệ th� nhận v� vụng về b�o chữa. Trong �t ra l� mười tuần lễ H� Nội v� Saigon với những cuộc biểu t�nh của ngư�i d�n thuộc đủ mọi th�nh phần, đặc biệt l� của những nh� tr� thức v� những chuy�n vi�n h�ng đầu của chế độ đ� trở th�nh hai trung t�m được người Việt từ mọi nơi hướng về v� được giới quan s�t quốc tế h�ng ng�y theo d�i. Trong sinh hoạt v� c�ng s�i bỏng kể tr�n, qua sinh hoạt văn nghệ v� đấu tranh của người Việt ở Hải Ngoại, một b�i h�t được l�m từ trước, từ năm 2008, đột nhi�n được phổ biến rộng r�i ở khắp nơi tr�n thế giới, rồi theo những l�n s�ng truyền thanh v� truyền h�nh, quốc tế cũng như của người Việt, những mạng điện tử� truyền về trong nước v� được ch�nh những người biểu t�nh ở trong nước c�ng nhau h�t rồi được c�c kh�n giả ngo�i nước th�ch th� h�t theo. Đ�y quả l� một hiện tượng bất ngờ chỉ c� thể xẩy ra ở thời đại điện tử. Nhạc Sĩ Tr�c Hồ v� b�i Đ�p Lời S�ng N�i của �ng bỗng nhi�n trở n�n quen thuộc đối với mọi người d� người đ� l� một c� nh�n ngồi trước m�y truyền h�nh hay m�y vi t�nh ở nh� ri�ng của m�nh hay một đ�m đ�ng tụ họp với nhau chống �Trung Cộng x�m lược v� Việt Cộng b�n nước� ở khắp c�c v�ng trời �, �u, Mỹ, �c, đặc biệt l� c�c cuộc biểu t�nh chung quanh ng�y 14 th�ng 9 năm 2011, ng�y nhiều người ch�nh thức gọi l� � nhục, � nhục hơn tất cả những ng�y � nhục kh�c trong lịch sử d�n tộc. Ch�nh nghĩa gi�nh độc lập v� giữ nước m� Hồ Ch� Minh đề cao v� người Cộng Sản từ hơn s�u mươi năm tự coi l� của ri�ng m�nh v� l� điều m� Hồ Ch� Minh coi như l� �� ch� sắt đ�, �truyền thống qu� b�u đ� c� từ thời c�c vua H�ng� bỗng nhi�n kh�ng c�n nữa.[1] Th�ng 9 năm 2011 mọi
chuyện đ� hiện ra tr�i ngưọc. T�n của Thủ Tướng Trần Văn Hữu của Quốc
Gia Việt Nam, t�n của c�c Tổng Thống Việt Nam Cộng H�a Ng� Đ�nh Diệm,
Nguyễn Văn Thiệu lại được nhắc đến c�ng với t�n của Hải Qu�n Trung T�
Ngụy Văn Th� c�ng với 74 chiến hữu của �ng, sau n�y th�m 64 chiến sĩ Hải
Qu�n Việt Nam nữa ở Trường Sa. Sự li�n tưởng n�y kh�ng phải chỉ l� bắt nguồn từ hiện tượng được phổ biến nhanh ch�ng của hai b�i h�t m� từ c�i t�n của b�i h�t của Tr�c Hồ: Đ�p Lời S�ng N�i. Bốn chữ n�y ai cũng phải nghĩ l� được lấy từ c�u đầu của b�i Quốc Ca của miền Nam: �N�y c�ng d�n ơi! Đứng l�n đ�p lời s�ng n�i� m� Tr�c Hồ hồi c�n đi học ở qu� nh� của �ng kh�ng tuần n�o l� kh�ng h�t, �t ra l� một lần. Sau n�y vượt bi�n ra Hải Ngoại ch�ng đ� trở th�nh nỗi nhớ nhung kh�ng bao giờ phai nhạt, dưới h�nh thức n�y hay h�nh thức kh�c v� đ� được phản ảnh qua những ca kh�c của �ng. V� vậy khi t�m hiểu Đ�p Lời S�ng N�i, người ta kh�ng thể kh�ng t�m hiểu Tiếng Gọi Sinh Vi�n v� t�m hiểu Tiếng Gọi Sinh Vi�n, người ta kh�ng khỏi t�m hiểu Tiến Qu�n Ca v� hai b�i sau đ� trở th�nh Quốc Ca của hai chế độ đối nghịch nhau trong suốt thời gian từ sau năm 1945 cho đến những ng�y hiện tại. Trong b�i n�y người việt sẽ t�m hiểu ba b�i h�t qua ba phần ch�nh yếu l� t�c giả v� ho�n cảnh s�ng t�c, nội dung của c�c b�i h�t v� cuối c�ng l� đối tượng v� khả năng l�i cuốn của những t�c phẩm n�y. A. T�c giả v� ho�n cảnh s�ng t�c I. Lưu Hữu Phước
Từ những kh�m ph� mới bằng nội t�m v� bằng t�nh cảm k�m theo với phong tr�o v� cuộc sống tươi trẻ của giới thanh ni�n, sinh vi�n, học sinh v� hướng đạo đương thời v� c�ng với bạn b�, Lưu Hữu Phước đ� s�ng t�c những b�i Ta C�ng Đi, Người Xưa Đ�u T�, Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hận S�ng H�t tức Hồn Tử Sĩ, Hội Nghị Di�n Hồng� v� tất nhi�n Tiếng Gọi Sinh Vi�n ở thời điểm n�y. Tất cả cho đến khi b�i n�y được viết v� c� lẽ chừng n�o lịch sử Việt Nam c�n, tất cả những b�i h�t n�y vẫn c�n giữ nguy�n được gi� trị ban đầu của ch�ng[5]. N�n nhớ l� trong thời gian n�y qu�n Nhật đ� k�o v�o Đ�ng Dương v� đ� chia sẻ quyền h�nh với người Ph�p. To�n Quyền Đ�ng Dương, Đ� Đốc Decoux do nhu cầu ngăn chặn ảnh hưởng của người Nhật, đồng thời cũng để l�m lệch hướng đấu tranh của giới trẻ Việt Nam thời đ� đ� tỏ ra cởi mở hơn. Giới thanh ni�n, đặc biệt l� học sinh, sinh vi�n được ch� � tới hơn v� phần n�o được đ�i ngộ kh� hơn. Cả một phong tr�o thanh ni�n dưới sự l�nh đạo của Hải Qu�n Đại T� Ducoroy đ� được ph�t động từ Bắc ch� Nam v� lu�n cả Mi�n, L�o. Lịch sử, tinh thần �i quốc của người Việt Nam cũng được khai th�c v� cổ v�. Vai tr� của Ho�ng Đế Nam Triều, l�c đ� cũng được đề cao. Những b�i h�ng ca lịch sử nhờ đ� đ� c� cơ hội xuất hiện v� phổ biến. Ngườ� ta c� thể, theo một khuynh hướng tự nhi�n coi những biện ph�p n�y của người Ph�p l� c� th�m � kh�ng tốt, nhưng d� thế n�o đi chăng nữa n� đ� mở đầu cho một sinh hoạt mới của tuổi trẻ Việt Nam v� đ� ảnh hưởng tới nhiều phạm vi kh�c về sau n�y. Theo như ch�nh Lưu Hữu Phước, b�i Tiếng Gọi Sinh Vi�n đ� được s�ng t�c v�o một đ�m th�ng tư năm 1941 do �ng khởi đầu, sau đ� được c�c bạn c�ng ph�ng �ch�ng t�i gọt giũa� v� �c�ng h�t vang�[6]. Lời đầu ti�n của b�i n�y, c� lẽ chịu ảnh hưỏng của những tuy�n truyền về �Khởi Nghĩa Bắc Sơn� n�n đ� nặng t�nh tranh đấu v� hận th� với những từ ngữ như lầm than, đau khổ, lo�i mu�ng th�, h�t m�u, cửa nh� tan r� v� văn phong c�n th� kệch vụng về, sau n�y mới được mọi người sửa lại. Cũng ch�nh Lưu Hữu Phước kể tiếp: �b�i h�t b� mật của ch�ng t�i được anh em lấy l�m b�i h�t sinh vi�n c�ng khai. Anh em l�m lại lời ca, v� sau nhiều lần sửa đi sửa lại v� đấu tranh với Sở kiểm duyệt, phong tr�o sinh vi�n đ� c� b�i h�t của m�nh tức l� b�i Tiếng gọi sinh vi�n (Lời ca của L� Khắc Thiều v� Đặng Ngọc Tốt) khi phong tr�o lan rộng b�i h�t được nh�n d�n tự động đổi l� Tiếng gọi thanh ni�n.�[7] Nhưng đ� l� theo Lưu Hữu Phước, theo những t�c giả kh�c trong đ� c� Gi�o Sư Nguyển Ngọc Huy th� hơi kh�c. Dẫn theo lời của B�c Sĩ Nguyền T�n Ho�n, đương thời l� Trưởng Ban �m Nhạc của Tổng Hội Sinh Vi�n Đại Học Đ�ng Dương tức Đại Học H� Nội, Gi�o Sư Huy cho biết l� nh�n dịp Tổng Hội tổ chức một đ�m ca nhạc v�o ng�y 15 th�ng 3 năm 1942 tại Đại Giảng Đường của nh� trường, nhằm lấy tiền gi�p c�c bệnh nh�n ngh�o ở c�c bệnh viện, nơi c�c sinh vi�n y v� dược khoa thực tập, Tổng Hội lựa một b�i ca lấy t�n l� Sinh Vi�n H�nh Kh�c với tiếng Ph�p l� Marche des �tudiants. Lưu Hữu Phư�c đ� đưa cho B�c Sĩ Ho�n một số bản nhạc do �ng soạn v� b�i Tiếng Gọi Sinh Vi�n đ� được lựa. Tiếp theo l� một ủy ban sửa hay soạn lại lời ca gồm c� c�c �ng Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Phan Thanh Ho�, Huỳnh Văn Tiểng, Ho�ng Xu�n Nhị, Nguyễn Tăng Nguy�n. Lời ca m� người ta c� sau n�y l� của tập thể của ủy ban sinh vi�n n�y.[8] Sau ng�y 15 th�ng 3, l� m�a h� năm đ� một đại lễ m�n kho� đ� được tổ chức tại nh� h�t lớn của th�nh phố, c� To�n Quyền Decoux v� c�c quan chức cao cấp Ph�p-Việt đến dự v� khi ban nhạc của Hải Qu�n Ph�p cử h�nh b�i Sinh Vi�n H�nh Kh�c n�y, tất cả mọi ngườ�, kể cả To�n Quyền Decoux, đều đứng dậy.[9] Lưu Hữu Phước đ� kh�ng n�i tới những buổi lễ n�y d� cho ch�ng l� những danh dự m� một nhạc sĩ b�nh thường phải coi l� một niềm h�nh diện. �ng cũng kh�ng n�i tới hai người nữ sinh vi�n l� Nguyễn Thị Thiều, sau n�y l� vơọ của B�c Sĩ Nguyễn T� Vinh v� Phan Thanh B�nh, sau n�y l� B� Nguyễn T�n Ho�n, l� những ca sĩ đ� h�t b�i của �ng đ�m t�c phẩm của �ng được ch�nh thức ra mắt tập thể sinh vi�n v� c�ng ch�ng thời ấy. Phải chăng, khi viết hồi k�, �ng đ� sợ một điều bất ổn n�o đ� khi n�i tới những vinh dự m� ph�a những người kh�ng phải l� Cộng Sản d�nh cho �ng v� t�c phẩm của �ng, l�c bấy giờ v� sau n�y khi Tiếng Gọi Sinh Vi�n trở th�nh Tiếng Gọi Thanh Ni�n, Tiếng Gọi C�ng D�n rồi Quốc ca của ph�a Người Việt Quốc Gia. Tất cả đều kh�ng được �ng nhắc tới trong hồi k� của �ng, ngay cả t�n của Tổ Chức Thanh Ni�n Tiền Phong. Về ph�a Người Việt Quốc Gia, từ c�c nh� l�nh đạo Thanh Ni�n Tiền Phong đến B�c Sĩ Nguyễn T�n Ho�n, người đ� đề nghị chọn Tiếng Gọi Sinh Vi�n l�m quốc ca cho Ch�nh Phủ Quốc Gia đầu ti�n do Cựu Ho�ng Bảo Đại th�nh lập v� l�nh đạo v� những người li�n hệ kh�ng thể kh�ng suy nghĩ kỹ c�ng v� kh�ng c� l� khi l�m quyết định n�y. Lưu Hữu Phước kh�ng phải l� t�c giả duy nhất của b�i Tiếng Gọi Sinh Vi�n v� b�i n�y khi được ra mắt c�ng ch�ng kh�ng những đ� trở th�nh sở hữu chung của tổ chức sinh vi�n hồi ấy m�, dưới danh xưng ch�nh thức l� Sinh Vi�n H�nh Kh�c, c�n l� biểu trưng cho tinh thần v� ư�c nguyện của to�n thể giới thanh ni�n đương thời. Từ H� Nội n� đ� được phổ biến mạnh mẽ ra to�n quốc, đặc biệt l� ở miền Nam, ở Saigon v� ở c�c tỉnh song song với c�c phong tr�o thanh ni�n thể thao Ducoroy, Hướng Đạo� Phải đọc những hồi k� hay những lời kể lại của c�c nh�n vật đ� từng sống ở miền Nam v� đ� từng tham gia hay bị l�i cuốn v�o phong tr�o n�y hay của ch�nh Lưu Hữu Phước người ta mới thấy được tầm phổ biến v� sự quan trọng của b�i Sinh Vi�n H�nh Kh�c, cũng như l� c�c b�i Bạch Đằng Giang, L�n Đường, Ải Chi Lăng� trong sinh hoạt thanh ni�n thời bấy giờ. Gi� M�a Đ�ng Bắc của B�c Si Trần Ngươn Phi�u, �Nhớ Qu� Hương� của Nguyễn Minh Ho�i Việt, �Hồi K� �của B�c Sĩ Nguyễn T�n Ho�n v� sau n�y l� c�c b�i viết của Gi�o Sư Nguyễn Ngọc Huy v� của Gi�o Sư Phạm Hồng Đảnh� đ� n�i l�n điều đ�. Tinh thần của những sinh hoạt n�y cho nguời ta thấy r� một � thức mới về sự thống nhất thể hiện qua sự trực tiếp kh�m ph� ra qua những cuộc thăm viếng tiếp những di t�ch của lịch sử oai h�ng của d�n tộc của c�c sinh vi�n gốc miền Nam ở Đại Học H� Nội, qua những cuộc thăm viếng tiếp những di t�ch ở chung quanh th�nh phố H� Nội trong những năm đầu của thập ni�n bốn mươi của thế kỷ trước, đ� th�nh h�nh v� đ� trở th�nh căn bản của c�c cuộc đấu tranh của to�n thể d�n tộc Việt Nam trong những năm kế tiếp. Độc lập lu�n lu�n phải đi đ�i với thống nhất, bắt đầu l� thống nhất l�nh thổ sau đ� l� thống nhất tinh thần d�n tộc m� cả hai ph�a Cộng Sản v� Quốc Gia đều đề cao kh�ng ri�ng trong sinh hoạt ch�nh trị v� qu�n sự m� lu�n cả trong gi�o dục, văn h�a v� nghệ thuật nữa. II. Tr�c Hồ Ở H� Nội �ng đ� c� những ng�y thật đẹp v� thật phong ph� cho một thanh ni�n mới lớn, từ l�u kh�t khao trở về với qu� khứ d�n tộc qua những buổi du ngoạn c�ng với c�c bạn đồng hương của m�nh trong những ng�y nghỉ. Tr�c Hồ tr�i lại chỉ c� một tuổi thơ l� tương đối hạnh ph�c, được sống với cha mẹ, được cắp s�ch đến trường trong một nước Việt Nam độc lập v� độc lập ho�n to�n �t ra l� trong phạm vi gi�o dục như bất cứ một đứa trẻ n�o kh�c, d� cho đất nước của �ng l�c n�y đ� bị chia đ�i v� đang trải qua một thời gian chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Sau n�y trong b�i Thi�n Thần Trong B�ng Tối, �ng đ� ghi lại: �Từ khi t�i ch�o đời, bập bẹ hai tiếng Việt Nam. Y�u qu� hương qua từng trang s�ch, H�ng Vương, Ph� Đổng rạng ngời.� Biến cố Th�ng Tư 1975 đ� cướp đi tất cả. Trường cũ, th�y c� ng�y trước kh�ng c�n như xưa nữa. Ngay cả c�i t�n trường �ng theo học, Trường Petrus Trương Vĩnh K� th�n y�u, quen thuộc v� l� niềm h�nh diện của to�n thể d�n ch�ng miền Nam cũng đ� bị loại bỏ v� bị thay thế bằng một c�i t�n L� Hồng Phong lạ hoắc. Nhưng cũng may l�, ngo�i Trường Petrus K�, Tr�c Hồ c�n c� một trường kh�c, hay nhiều �trường� kh�c v� nhiều th�y kh�c m� �ng kh�ng những cũng y�u mến kh�ng k�m m� c�n gắn b� hơn, bằng c�ch n�y hay c�ch kh�c theo học suốt đời. Đ� l� những trường nhạc, nơi �t ra ba vị th�y đ� kh�ng những hướng dẫn �ng về chuy�n m�n m� c�n gi�p �ng đứng vững để tiến tới trong thời kỳ dễ bị khủng hoảng v� hư hỏng nhất của đời người. Đ� l� c�c nhạc sĩ v� gi�o sư �m nhạc nổi tiếng của miền Nam đương thời, c�c nhạc sĩ Nghi�m Ph� Phi, H�ng L�n v� Đại T� Trần Văn T�n, Chỉ Huy Trưởng ng�nh qu�n nhạc của Qu�n Đội Việt Nam Cộng Ho�, sau n�y l� nhiều th�y c� kh�c, sau năm 1975, từ miến Bắc v�o như Ch� Vũ, Cao L� Thuần v� c�c th�y m� b�y giờ �ng chi c�n nhớ t�n m� kh�ng nhớ họ như Th�y Dung, C� Diệu�, m� �ng lu�n lu�n nhắc tới với những lời tr�u mến, biết ơn.[10] Tất nhi�n l� c�n nhiều vị th�y hay c�c bậc đ�n anh hay bạn b� kh�c. N�i c�ch kh�c, Tr�c Hồ c� rất nhiều th�y, th�y ch�nh thức hay th�y ở ttrường đời. Đ�y l� điểm thứ hai Tr�c Hồ may mắn hơn Lưu Hữu Phuớc v� Lưu Hữu Phước khi học t�n nhạc chỉ l� tự học qua s�ch vở hay bạn b�. Cuộc sống thiếu �m đềm của Tr�c Hồ kh�ng ngừng ớ đ�. N� vẫn tiếp tục với cuộc vượt bi�n tị nạn của �ng, vượt bi�n theo đ�ng nghĩa vượt bi�n giới của n�. Ở đ�y l� vượt bi�n giới Việt Mi�n với tất cả những g� nguy hiểm v� đầy h�i h�ng của cuộc phi�u lưu, v� c�ng liều lĩnh v� v� vọng n�y . Tiếp theo l� những ng�y sống trong trại tị nạn, đ�ng ra l� trại t� ở bi�n giới Th�i Lan-Căm Bốt như l� một trẻ em vị th�nh ni�n đi một m�nh, một �unaccompanied child�trong trại NW-9. Sau đ� l� cuộc sống kh�ng người th�n ở b�n Mỹ.[11] T�m hiểu những b�i h�ng ca của Tr�c Hồ, người ta cần phải để � tới những yếu tố li�n hệ tới cuộc sống đầy b�o tố của ri�ng �ng, đồng thời cũng l� của to�n thể miền Nam v� nh�n d�n miền Nam trong suốt thời gian n�y v� những kinh nghiệm của ri�ng �ng, những kinh nghiệm m� kh�ng phải bất cứ người tị nạn Việt Nam n�o cũng c�, ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại. B�n Em Đang C� Ta l� một trong số những kinh nghiệm
đ�: Mẹ y�u em thiết tha hơn m�a xu�n trong cuộc đời, B�n em đang c� ta, h�t về em tương lai x�t xa, Tại sao nhạc của Tr�c Hồ lại vừa bi thảm, vừa h�ng mạnh, vừa nồng n�n, tha thiết, x�t xa v� nhiều hấp lực đối với đ�m đ�ng như vậy? Bỏ qua những yếu tố n�y người ta kh�ng thể n�o cắt nghĩa được. Phải nh�n s�u v�o ho�n cảnh v� t�m tư của ch� b� unaccompanied Tr�c Hồ v�o thời điểm l�c ở trong trại, được ch�nh mắt thấy, ch�nh tai nghe những thảm cảnh bi đ�t của những em c�n nhỏ tuổi hơn m�nh v� của th�y gi�o nhạc sĩ Trầm Tử Thi�ng cũng vượt bi�n tị nạn như c�c em người ta mới phần n�o th�ng cảm được. III. Văn Cao
Văn Cao, như ai cũng biết v� cũng đều phải c�ng nhận, m�i m�i l� một trong những thi�n t�i về �m nhạc của Việt Nam. �ng đ� nổi tiếng từ l�u trước khi viết Tiến Qu�n Ca qua những b�i h�t m� kh�ng ri�ng g� đương thời, m� lu�n cả trong hiện tại, s�u bảy chục năm đ� tr�i qua, rất �t người Việt Nam y�u nhạc n�o m� kh�ng biết v� kh�ng y�u mến. Kh�ng những thế �ng c�n l� một nh� thơ v� một họa sĩ t�i hoa nữa. C� điều ho�n cảnh đ� đưa �ng đến việc s�ng t�c Tiến Qu�n Ca l� cả một bi kịch th� thảm nhất v� đ�ng thương nhất trong lịch sử nghệ thuật của d�n tộc Việt Nam. Văn Cao đ� kh�ng tự m�nh s�ng t�c theo cảm hứng ri�ng của m�nh m� v� đ� nhận lời của một c�n bộ cao cấp của Đảng Cộng Sản để l�m b�i n�y, rồi cũng từ đ� �ng vướng mắc v�o hết hệ lụy n�y sang hệ lụy kh�c, kể cả chuyện �ng đ� l�nh s�ng, tham gia ban �m s�t v� đ� nh�ng tay v�o những vụ giết ngư�i.[12] L� do l� năm đ�, năm 1944, Văn Cao bị thất nghiệp, tranh triển l�m b�n kh�ng được, lại gặp năm �trời r�t hơn mọi năm� v� khi �những ng�y đ�i của t�i bắt đầu�. C�u chuyện đ� được ch�nh nhạc sĩ, hơn ba mươi năm sau, kể lại, nguy�n văn như sau: �Sau triển l�m Duy Nhất 1944 (Salon unique), t�i về ở một căn g�c hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của t�i tuy được trưng b�y v�o chỗ tốt nhất của ph�ng tranh � nh� Khai Tr� Tiến Đức � v� được c�c b�o giới thiệu, cũng kh�ng b�n nổi. Hi vọng về cuộc sống bằng hội họa, tại H� Nội kh�ng thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho t�i căn g�c ấy l� người xuất bản mấy bản nhạc đầu ti�n của t�i cũng kh�ng thấy n�i đến tiện nhuận b�t. T�i chưa bao giờ nhận được tiền nhuận b�t về c�c bản nhạc viết hồi đ� d� đ� tr�nh diễn nhiều lần ở c�c tỉnh từ Bắc tới Nam, t�i cũng kh�ng nhận được tiền nhuận b�t về thơ v� truyện ngắn�. H�ng ng�y t�i nhờ mấy họa sĩ nu�i cơm v� gi�p đỡ phương tiện cho l�m việc. Cuộc sống lang thang ấy kh�ng thể k�o d�i nhiều ng�y. Muốn l�m việc th� kh�ng c� chỗ. H� Nột l�c ấy lại đang đ�i. �Năm ấy r�t hơn mọi năm. T�i ngủ mặc nguy�n quần �o. C� đ�m phải đốt dần bản thảo v� k� họa để sưởi. Đ�m ấy cũng d�i hơn mọi năm. Những ng�y đ�i của t�i bắt đầu.�[13] Đ�ng v�o l�c đ� th� Vũ Qu�, người c�n bộ Việt Minh thường theo d�i Văn Cao từ nhiều năm trước xuất hiện. Văn Cao kể tiếp: �T�i đ� gặp lại đồng ch� Vũ Qu�. Anh l� người vẫn theo d�i những hoạt động nghệ thuật của t�i từ mấy năm qua v� thường khuyến kh�ch t�i s�ng t�c những b�i h�t y�u nước như Đống Đa, Thăng Long h�nh kh�c ca, Tiếng Rừng v� một số ca kh�c kh�c. Ch�ng t�i gặp nhau trước ga H�ng Cỏ. Ch�ng t�i v�o một tiệm ăn. Ở đấy quyết định cuộc đời của t�i. C�u chuyện giữa ch�ng t�i hết sức đơn giản. - Văn c� thể tho�t ly hoạt động được chưa? - Được. - Ng�y mai Văn bắt đầu nhận c�ng t�c v� nhận phụ cấp h�ng th�ng. - Ng�y h�m sau anh đưa t�i lại nh� một đồng ch� thợ gi�y đầu ng� chợ Kh�m Thi�n để ăn cơm th�ng v� chờ quyết định v� c�ng t�c. Ng�y đầu ti�n chấm dứt cuộc sống lang thang của t�i.�[14] Sau đ� Vũ Qu� đến t�m Văn Cao giao c�ng t�c. C�ng t�c đ� l�: - �Hiện nay, tr�n chiến khu thiếu b�i h�t, phải d�ng những điệu hướng đạo. Kho� qu�n ch�nh kh�ng Nhật sắp mở, anh h�y soạn một b�i h�t cho qu�n đội c�ch mạng của ch�ng ta.� [15] Đ�y l� một việc l�m ho�n to�n xa lạ đối với một nghệ sĩ như Văn Cao. �ng đ� kh�ng được l�m theo � ri�ng v� theo hứng khởi của m�nh m� phải l�m theo đơn đặt h�ng v� để trả nợ với một đề t�i kh�ng chứa đựng một điều g� quen thuộc. �ng chưa bao giờ l�n chiến khu v� chưa bao giờ thấy qu�n Việt Minh ở chiến khu m� phải n�i tới chiến khu v� qu�n Việt Minh ở chiến khu. Theo Văn Cao kể lại, �ng đ� l�m b�i h�t n�y trong �kh�ng biết bao nhi�u ng�y tại căn g�c hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền� H� Nội v� trong đ�m đầu ti�n, sau khi đ� đi lang thang dọc theo c�c đường phố quen thuộc với c�u hỏi l�ng t�ng trong đầu: �Phải l�m thế n�o đ�y?�, �ng chỉ �viết được n�t nhạc đầu�. [16] Điều n�y cũng dễ hiểu v� cũng như Lưu Hữu Phước, khi l�m b�i n�y �ng kh�ng thể kh�ng nghĩ tới b�i Quốc ca của nước Ph�p, b�i La Marseillaise. Bằng chứng l� trong phần lời �ng l�m sau n�y c� c�u �Cờ in m�u chiến thắng mang hồn nước�, một c�u tương tự như c�u �L��tandard sanglant est lev� trong b�i La Marseillaise. Điều t�i muốn n�i l�n ở đ�y l� Văn Cao kh�ng l�m b�i Tiến Qu�n Ca trong một ho�n cảnh đầy vui tươi, hứng khởi như ho�n cảnh của Lưu Hữu Phước khi họ Lưu l�m b�i Sinh Vi�n H�nh Kh�c hay của Tr�c Hồ khi người nhạc sĩ thuộc thế hệ một chấm rưỡi (1.5) ở Hải Ngoại l�m b�i Đ�p Lời S�ng N�i về sau n�y. Tạo n�n n�t nhạc cho đơn giản cho mọi ngư�i c�ng h�t đối với một thi�n t�i như Văn Cao kh�ng phải l� chuyện kh�. Lời h�t đi k�m sao cho đ�ng � của người đặt h�ng mới ch�nh l� vấn đề. Trong hồi k� của �ng, Văn Cao kh�ng cho biết l� Vũ Qu� khi giao c�ng t�c cho �ng c� chỉ thị cho �ng biết l� lời h�t phải như thế n�o hay kh�ng, từ � tưỏng đến từ ngữ đươọc d�ng, nhưng những tiếng như cứu quốc, chiến khu, sao v�ng, đời mới, v� trang, Th�i Nguy�n, Đ� Lương, Bắc Sơn�r� r�ng l� những ng�n từ của thời đại. Ngư�i ta cũng kh�ng biết l� Nguyễn Đ�nh Thi, một c�n bộ văn h�a cao cấp kh�c, t�c giả của b�i Diệt Ph�t X�t c� ảnh hưởng g� tới Văn Cao hay kh�ng, nhưng hai người c� gặp nhau theo lời kể của Văn Cao: �T�i nhớ lại nụ cười hồn nhi�n của đồng ch� Nguyễn Đ�nh Thi khi xướng �m lần đầu ti�n nhạc điệu b�i h�t đ�.� Xướng �m nhạc điệu ở đ�y phải được hiểu l� nhạc điệu th�i, kh�ng phải l� lời. C�n Nguyễn Đ�nh Thi th� sau n�y khi được Ng� Vĩnh B�nh phỏng vấn v�o th�ng 3 năm 1985 �đ� cười bảo: b�i Diệt ph�t-x�t thực ra chỉ diễn tả những khẩu hiệu, đường lối của Việt Minh l�c ấy.�[17] Đường lối n�y kh�ng thể kh�c hơn l� đường lối đ� được Trường Chinh vạch ra trong Bản Đề Cương Về C�ch Mạng Văn H�a Việt Nam năm 1943 của Đảng Cộng Sản Việt Nam m� Vũ Qu�, Nguyễn Đ�nh Thi hay cao hơn nữa l� L� Quang Đạo chỉ l� những cấp thừa h�nh.[18] Nghi vấn n�y nếu được giải tỏa th� c�u �Thề phanh th�y uống m�u qu�n th�� c� thể hiểu l� kh�ng phải của Văn Cao m� l� của những người kh�c hay do � của người kh�c. Một nghi vấn về một đồng t�c giả của Tiến Qu�n Ca do tờ TPCN (người viết b�i n�y nhất thời chưa r� t�n thực sự của tờ b�o n�y l� g�, kh�ng biết c� phải l� Tiền Phong Chủ Nhật hay kh�ng?) một dạo đ� được n�u l�n, căn cứ v�o bản in đầu ti�n do ch�nh Văn Cao trực tiếp lo phần ấn lo�t. Nguyễn Thụy Kha đ� hỏi lại ch�nh Văn Cao qua một cuộc phỏng vấn v�o năm 1993, một buổi s�ng sau ng�y mừng sinh nhật của Văn Cao, c� thể phần n�o gi�p ta hiểu r� hơn vấn đề n�y. C�u chuyện đ� được Nguyễn Thụy Kha ghi v� người viết xin ch�p lại nguy�n văn để người đọc thấy th�m được nhiều chi tiết quan trọng cũng như những hệ lụy kh�c: �Nguyễn Thụy Kha: Thưa b�c, c� lẽ v� đ�m đ� qu� vui, b�c mệt. �Văn Cao: Đ�ng, vui lắm. h�nh như t�i đ� chọc anh nhiều. Song cuộc vui nao chẳng t�n. C�i buồn lưu cữu lại ập đến. �NTK: V�ng! Ch�u rất biết. Ch�ng ta đều l� con người chứ c� phải lằ gỗ đ� đ�u. Cũng v� vậy, h�m nay, ch�u xin b�c n�i th�m với ch�u v� tất cả mọi người về c�i buồn của b�c trong thời gian n�y. �V.C: C� g� đ�u. Mọi việc v� t�i l� t�c giả Quốc Ca, anh ạ! Tự nhi�n b�y giờ sau 46 năm lại c� tờ TPCN đặt vấn đề nghi vấn. Trong việc n�y, c� những c�i nh�n bị nhiễu từ k�nh n�y sang k�nh kh�c. �N.T.K: B�c n�i chắc đấy chứ? Kẻo lại mang tiếng cho dụng � tốt của tờ b�o. �V.C: T�i đ� n�i l� chắc. M� đ� n�i rồi nhưng rất tiếc l� anh Xu�n Ba, người đến phỏng vấn t�i kỳ trước kh�ng viết ra hết mặt b�o. Trong việc n�y c� ba sự thật: �- Sự thật thứ nhất l�: T�i l� ngư�i viết Tiến qu�n ca, điều ấy chỉ c� t�i mới biết v� khi t�i s�ng t�c b�i n�y trong b� mật, kh�ng ai được biết. Ai n�i biết l� bịa. �- Sự thật thứ hai: T�i đ� c� � để anh Đỗ Hữu �ch đứng t�n c�ng l� t�c giả phần lời với mật danh Anh Dũng. L�c ấy t�i lấy mật danh l� Anh Thọ. B�i Tiến qu�n ca đầu ti�n do t�i trực tiếp ấn lo�t ghi t�c giả: Nhạc Anh Thọ, lời Anh Dũng. T�i c� � để anh �ch trong b�i Tiến qu�n ca c� hai l� do: �1. L�c ấy t�i l� bạn anh �ch v� đang lấy tạm nh� anh �ch l�m cơ sở hoạt động. �2. Để anh �ch đứng t�n chung c� lợi ở chỗ nếu anh �ch c� muốn phản bội th� cũng kh�ng d�m v� đ� tr�t đứng t�n chung c�ng với t�i. Đ�y l� một ph�p trong hoại động b� mật. Buộc phải đề ph�ng mọi khả năng. Anh �ch quen rất nhiều hiến binh. B�i Tiến qu�n ca khi đ� mới chỉ l� b�i ca của qu�n c�ch mạng. Người s�ng t�c b�i ca l� kề với c�i chết bất cứ l�c n�o. T�i để anh �ch đứng chung bằng mật danh l� để bảo vệ b�i ca n�y. �Nhưng đ� l� thời kỳ b� mật. Sau c�ch mạng khi anh �ch lập nh� xuất b�n Đỗ Văn th� l�c n�y anh đ� tự chuyển � sang: Nhạc Văn Cao, lời Đỗ Hữu �ch, kể cả khi anh vận động nh� in in ở Hải Ph�ng. N� đ� lột được bản chất xấu của anh �ch. �Sự thật thứ ba l�: Khi b�i Tiến qu�n ca được c�ng nhận l� Quốc ca Việt Nam, n� được sự g�p � về nhạc của anh Đinh Ngọc Li�n v� Nguyễn Hữu Hiếu. C�n lời th� anh Tố Hữu đ� sửa nhiều c�u (xin để � mấy chữ n�y). Nhưng khi B�c Hồ y�u cầu gặp t�c giả Quốc ca th� chỉ một m�nh t�i (do anh Tố Hữu đưa đến gặp B�c. V� thế, năm 1946 nh� nước in b�i Tiến qu�n ca v� Quốc ca trong hiến ph�p c�ng bố với to�n d�n v� nước ngo�i l� Văn Cao. Vậy b�o Tiền Phong CN với l�ng c�ng t�m gi�p đỡ anh �ch th� phải c�ng anh �ch đấu tranh với nh� nước để đ�i bằng được cho anh �ch, T�i l�m sao l�m được việc đ�. Nếu Quốc hội đ� chứng nhận t�i l� t�c giả Quốc ca th� t�i phải nghe v� chấp h�nh. Khi ấy, kẻ n�o nhận th�m v�o tức l� mạo danh t�c giả rồi. C� ngồi với nhau cũng chả giải quyết được.�[19] Qua những g� Văn Cao giải th�ch kể tr�n, ta c� thể n�i kh�ng phải d� dặt rằng b�i Tiến Qu�n Ca l� do Văn Cao l�m với sự g�p � v� lu�n cả sửa chữa của nhiều người trong đ� c� Tố Hữu. Ri�ng Tố Hữu �đ� sửa nhiều c�u�. Cũng vậy tất cả đ� được l�m trong b� mật m� nếu kh�ng c� chuyện Đỗ Hữu �ch đ�i chia sẻ quyền t�c giả th� Văn Cao đ� kh�ng n�i ra. N�i c�ch kh�c những g� Văn Cao n�i ra chỉ l� một phần của sự thật nhưng người ta vẫn c� thể kết luận rằng Văn Cao kh�ng phải l� t�c giả duy nhất của b�i Tiến Qu�n Ca nhất l� về phần lời h�t. Phần n�y đ� được sự g�p � của nhiều người trong đ� c� Tố Hữu v� Nguyễn Đ�nh Thi, hai c�n bộ cao cấp đương thời v� về sau n�y. Ngay cả c�i t�n của b�i h�t, Nguyễn Đ�nh Thi cũng c� g�p phần, đồng thời hai chữ Việt Minh trong c�u �Đo�n qu�n Việt Minh đi chung l�ng cứu quốc� l� hai chữ được d�ng l�c ban đầu, sau n�y mới được đổi th�nh Việt Nam. Việt Minh l�c ấy chỉ l� một đảng, hay một mặt trận, c�n nhiều đảng v� mặt trận kh�c. Ch�nh v� vậy b�i h�t khi được phổ biến mới bị những ngư�i chống Việt Minh nh�i đi th�nh: �Đo�n qu�n Việt Minh đi xe nh� phất phới, dắt họ h�ng l�ng nước ra l�m quan�.[20] B. Nguy�n văn lời h�t I. Sinh Vi�n H�nh Kh�c hay Tiếng Gọi Sinh Vi�n B�i n�y c� ba lời một
điệu , mỗi lời gồm mười c�u v� bốn c�u điệp kh�c chung. N�y sinh vi�n ơi! Đứng l�n đ�p lời s�ng n�i! v� phần đi�p kh�c: Lời II nhắc lại lịch sử �h�ng cường� trong c�i �Trời Nam� của d�n tộc với những chiến thắng b�nh Chi�m, ph� Tống, đ�nh đuổi qu�n Nguy�n, kh�ng cự oai h�ng của Hai B� Trưng ở Hồ T�y, Lam Sơn Khởi Nghĩa của L� Lợi, dẹp tan qu�n Thanh của Quang Trung v� k�u gọi sinh vi�n đừng qu�n kh� ph�ch từ xưa được truyền lại của n�i giống, mong mỏi c� ng�y đất nước vẻ vang. Nguy�n văn như sau:
Lời III k�u gọi sinh vi�n, v� đường c�n xa, phải noi gương người xưa, �c�ng nhau gắng�, �đem l�ng son cho giống d�ng�, trong vị thế v� khả năng của m�nh �vun c�y văn ho�, �vững cầm tay l�i�, �bền ch� quyết gắng sức l�m cho khắp nơi vang tiếng người nước Nam cho đến mu�n đời!�. Nguy�n văn như sau: N�y sinh vi�n ơi! Muốn đi đến ng�y tươi s�ng, Khi b�i được nhận l�m đo�n ca của Thanh Ni�n Niền Phong v� sau đ� l� Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại theo dề nghị của B�c Sĩ Nguyễn T�n Ho�n v� theo B�c Sĩ Ho�n th� nhan đề của b�i h�t được đổi th�nh Thanh Ni�n H�nh Kh�c v� nội dung cũng được sửa lại như sau: N�y thanh ni�n ơi! Quốc Gia đến ng�y giải ph�ng Điệp kh�c: Thanh ni�n ơi! Thanh ni�n ơi! Mau hiến th�n dưới
cờ! B�c sĩ Nguyễn T�n Ho�n giải th�ch sự lựa chọn n�y như sau: �Khoảng năm 1947, trước khi trỏ về nước lập ch�nh phủ mới, cựu ho�ng Bảo Đại c� mời t�i v� một số đại diện t�n gi�o, c�c ch�nh kh�ch như c�c �ng Ng� Đ�nh Diệm, Đinh Xu�n Quảng, Phan Huy Qu�t, Trần Văn Tuy�n, Trần Quang Vinh, Trần Th�nh Đạt, BS L� Văn Hoạch, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn T�m, v..v�đến họp tại Hồng K�ng. Trong buổi hội nghị n�y c� b�n về sự lựa chọn quốc kỳ v� bản quốc ca cho Việt Nam. H�nh vẽ l� cờ v�ng ba sọc đỏ tượng trưng ba miền Trung, Nam, Bắc của họa sĩ nổi danh tại miền Nam l� họa sĩ L� Văn Đệ đ� được chọn l�m quốc kỳ Việt nam. T�i đề nghị chọn bản �Tiếng Gọi Sinh Vi�n� l�m quốc ca, v� n� l� linh hồn cuộc chống Ph�p tại miền Nam Việt nam của Đo�n Thanh Ni�n Tiền Phong. Hội nghị đ� chấp thuận v� bản nhạc được đổi t�n l� Thanh Ni�n H�nh Kh�c với lời nhạc��[22] (được giữ nguy�n như tr�n) Về thời điểm B�c Sĩ Nguyễn T�n Ho�n chỉ n�i l� v�o khoảng năm 1947 v� cũng kh�ng giải th�ch sự thay đổi lời h�t nhưng điều n�y kh�ng kh� hiểu v� thời cuộc Việt nam v�o l�c n�y đ� ho�n to�n thay đổi. Lực lượng của người Việt Quốc Gia đ� được tập hợp lại dưới sự l�nh đạo của Cựu Ho�ng Bảo Đại v� ch�nh quyền Quốc Gia của một nước Việt Nam độc lập v� thống nhất đang tr�n đ� th�nh h�nh, việc lựa chọn Quốc Kỳ v� Quốc Ca, những biểu tượng cho một ch�nh thể mới, phải l� một trong những việc l�m đầu ti�n cần được thực hiện. Cờ v�ng với ba sọc đỏ l� tượng trưng cho sự thống nhất ba kỳ, nguyện vọng của mọi người l�c đ�, Thanh Ni�n H�nh Kh�c l� linh hồn cuộc kh�ng chiến chống Ph�p tại miền Nam Việt Nam của Đo�n Thanh Ni�n Tiền Phong l� những l� do được n�u l�n. Ta cũng cần phải th�m v�o đ� một sự kiện kh�ng thể chối c�i được. Đ� l� những sinh vi�n xuất th�n từ xứ Nam Kỳ l� những ngư�i đ� đ�ng vai tr� quan trọng nhất trong việc s�ng t�c v� phổ biến ca kh�c n�y. Tiếp theo l� sự th�nh h�nh của ch�nh quyền quốc gia v� sự thực thi nền thống nhất l�nh thổ v� thống nhất d�n tộc. Cả hai c�ng bắt đầu từ miền Nam, từ xứ Nam Kỳ. N�i c�ch kh�c nền thống nhất của đất nước Việt Nam v�o cuối thập ni�n bốn mươi đ� kh�ng đến bằng bạo lực m� bằng h�a b�nh v� ph�t khởi từ miền Nam. Miền nam đ� � thức được nguồn gốc v� vai tr� lịch sử của m�nh, đ� t�m c�ch trở về với d�n tộc. Đ� l� sự trở về với l�nh thổ quốc gia của xứ Nam Kỳ do ch�nh người miền Nam chủ xướng. Trong ho�n cảnh n�y, lời của b�i h�t đương nhi�n l� phải được sửa đổi. Giai đoạn tiếp theo l� thời kỳ chế độ Cộng Ho� ở miền Nam được th�nh lập, người Ph�p đ� ra đi, nền độc lập đ� ho�n to�n được thực hiện, một giai đoạn mới đ� bắt đầu, lời của Quốc Ca một lần nữa cần được điều chỉnh th�m một lần nữa cho th�ch hợp với một nước Việt Nam độc lập đang tr�n đường củng cố v� x�y dựng. Nguy�n văn của lời mới như sau: N�yc�ng d�n ơi! Đứng l�n đ�p lời s�ng n�i! Điệp kh�c: C�ng d�n ơi! C�ng d�n ơi! Mau hiến th�n dưới cờ! II. Tiến Qu�n Ca Tiến Qu�n Ca l� một h�nh kh�c gồm một điệu nhạc v� hai phần lời, được l�m cho qu�n Việt Minh l�c đ� mới được th�nh lập tr�n chiến khu, theo lời y�u cầu của Vũ Qu�. Nguy�n văn phần lời ban đầu như sau:
Lời II: B�i n�y, sau khi Việt Minh cướp được ch�nh quyền ng�y 19 th�ng 8 năm 1945 v� Hồ Ch� Minh tuy�n bố độc lập ng�y 2 th�ng 9 sau đ� đ� trở th�nh Quốc ca của nước Việt Nam D�n Chủ Cộng Ho� rồi Cộng Ho� X� Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện tại. Trong ho�n cảnh mới, lời ca đ� được thay đổi. �Đo�n qu�n Việt Minh� đ� được đổi th�nh �Đo�n qu�n Việt Nam� v� đặc biệt l� c�u �Thề phanh th�y uống m�u qu�n th��, nghe c� vẻ sắt m�u v� đ�i khi man rợ theo nhiều ngư�i nhận định cho một d�n tộc tư coi l� văn minh của thời đại mới kh�ng c� lợi cho c�c vận động tuy�n truyền, đ� được đổi th�nh �V� nh�n d�n chiến đấu kh�ng ngừng��[24]Tuy nhi�n, trước khi c� những sự thay đổi n�y, đối chiếu với những g� ch�nh t�c giả Văn Cao tiết lộ với nh� văn Nguyễn Thụy Kha năm 1991 như đ� tr�nh bầy tr�n đ�y v� như một �sự thực thứ ba� l� �Khi b�i Tiến qu�n ca được c�ng nhận l� Quốc ca Việt Nam, n� đ� được sự g�p � về nhạc của anh Đinh Ngọc Li�n v� Nguyễn Hữu Hiếu. C�n lời th� anh Tố Hữu đ� sửa nhiều c�u�� lời của Tiến Qu�n Ca v� lu�n cả nhạc đ� bị sửa �t ra l� một lần chưa kể tới sự �t ra l� g�p � của Nguyễn Đ�nh Thi v� chắc chắn những chỉ dẫn của Vũ Qu�. Tiếc rằng �ng đ� kh�ng n�i r� hơn l� những g�p � v� những c�u được sửa ấy l� những c�u n�o, đồng thời nguy�n thủy do Văn Cao l�m l� như thế n�o. Người ta cũng kh�ng được r� trong th�m t�m của �ng l�c đ� v� sau n�y, Văn Cao đ� c� những cảm nghĩ g� trước những sự �g�p �� v� �sửa� đ�. Đằng sau th�i độ chấp nhận, vui vẻ, thụ động, h�nh diện hay bất đắc dĩ đ�, �ng đ� nghĩ g�? N� c� ảnh hưởng g� tới những việc l�m sau n�y của �ng kh�ng? N� c� phải l� một trong nỗi u uất �ng mang theo khi từ bỏ c�i đời n�y kh�ng? Lịch sử kh�ng bao giờ được biết. C� điều sau khi �ng mất một v�i t�c giả đ� n�i tới sự đau buồn của �ng sau c�i chết đầy nghi vấn của Vũ Qu� v�o giữa th�ng 9 năm 1945. Kể lại chuyện n�y, Ph� Văn B�i đ� ghi: �Mỗi khi nhắc lại chuyện cũ, cũng như h�m nay anh cầm tấm ảnh đồng ch� Vũ Qu�, nước mắt anh lại ướt đầm.�[25] C�n Nguyễn Thụy Kha, người c� lẽ được nghe Văn cao t�m sự nhiều hơn hết v� t�c giả n�y đ� viết cả một ch�m 18 b�i về nhạc sĩ thi�n t�i nhưng bất hạnh n�y, trong �Văn Cao, Người Viết Quốc Ca�, th� nhận x�t về Văn Cao trong thời kỳ kh�ng chiến như sau: �Ch�n năm kh�ng
chiến dằng dặc đi qua gia đ�nh anh v� cho anh hai đứa con trai c�ng sự
nghiệp �m nhạc. Nhưng cũng ch�n năm ấy, l�ng anh biết bao trăn trở. C�i
buồn đầu ti�n m� anh vấp phải l� c�i chết kh� hiểu của Vũ Qu� � người m�
bằng mọi linh cảm, anh kh�ng tin c� thể l� người xấu. Mất Vũ Qu�, anh
cảm thấy chống chếnh tinh thần biết bao. Rồi vết thương cũng th�nh sẹo.
Nhưng lại bao vết thương kh�c mưng tấy v� những x�t xa trước nhiều điều
m� khi hăng h�i nhập v�o c�ch mạng, anh kh�ng c�ch g� nghĩ tới. Đ� xen
v�o giữa những người từ tế l� nững kẻ cơ hội. Đau đớn nhất l� ch�ng �
những kẻ kh�ng của ch�ng ta lại vẫn đang đ�ng ho�ng đứng trong h�ng ngũ
ch�ng ta. Đứng vững v� c� quyền lực nữa. Thế mới kh� khăn!�[26] Đ�p Lời S�ng N�i của Tr�c Hồ thoạt nghe c� vẻ đơn giản hơn hai b�i trước, chỉ gồm c� một điệu nhạc v� một lời: Đ�p lời s�ng n�i, anh em ta đ�p lời s�ng n�i. Nhưng khi được hỏi, Tr�c Hồ đ� giải th�ch th�m l� sự đơn giản, nhất l� lời, chỉ l� để cho b�i h�t dễ h�t c�n thực sự về nhạc, nội dung kh�ng ho�n to�n như thế m� bao gồm cả thảy bốn phần: phi�n kh�c, điệp kh�c, đoạn nhạc tiếp nối (musical bridge) v� đoạn nhạc coda với những chi tiết như sau: Phi�n kh�c: Đ�p lời s�ng n�i, anh em ta đ�p lời s�ng n�i. Điệp kh�c: Đ�y mu�n triệu con tim! Đ�y mu�n triệu khối �c! Phi�n kh�c: Đ�p lời s�ng n�i, anh em ta đ�p lời s�ng n�i.
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! C. Đối tượng v� khả năng hấp dẫn V� được s�ng t�c trong những ho�n cảnh kh�c nhau, đối tượng được hướng tới của ba b�i h�t kh�c nhau, từ đ� lời h�t v� điệu nhạc cũng kh�c nhau, t�nh chất v� khả năng l�i cuốn người h�t v� người nghe cũng kh�c nhau. Đối tượng của Tiếng Gọi Sinh Vi�n l� sinh vi�n, l� tập thể m� t�c giả l� một th�nh phần, kể cả nếu theo lời kể của nhiều ngư�i cho rằng b�i n�y khởi thủy l� được l�m cho học sinh trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh K� khi t�c giả c�n theo học trường n�y, n� vẫn l� tập thể của ch�nh t�c giả. N�i c�ch kh�c, ch�nh thức hơn, b�i h�t n�y được Lưu Hữu Phước l�m cho tập thể của ch�nh �ng, t�p thể sinh vi�n Đại Học Đ�ng Dương ở H� Nội v� được mang t�n l� Sinh Vi�n H�nh Kh�c với t�n tiếng Ph�p l� Marches des �tudiants. Trong ho�n cảnh đ�, ước mơ v� hy vọng của Lưu Hữu Phước cũng l� ước mơ v� hy vọng chung của tất cả mọi người trong tập thể chung của �ng. Ch�ng bắt nguồn từ ho�n cảnh sinh hoạt đương thời, từ học h�nh cho đến ch�nh trị, x� hội, văn ho� trong đ� quan trọng hơn cả l� lịch sử oai h�ng của nhiều ng�n năm của d�n tộc m� �ng v� những đồng bạn c�ng qu� hương Nam Kỳ, một miền đất của quốc gia Việt Nam vốn từ l�u bị nhượng l�m thuộc địa của người Ph�p, của �ng, bất ngờ t�m lại được qua s�ch vở v� qua những chuyến du ngoạn thăm c�c di t�ch lịch sử ở xung quanh thủ đ� H� Nội. Sức l�i cuốn của Tiếng Gọi Sinh Vi�n ngay từ những ng�y đầu v� ở to�n quốc, từ Bắc ch� Nam, bắt nguồn từ những yếu tố n�y. Lịch sử của d�n tộc trực tiếp hay gi�n tiếp b�ng bạc trong khắp cả ba phần lời của b�i h�t, đặc biệt l� phần thứ hai. Ch�ng kh�ch động người h�t v� đem họ lại gần nhau v� t�c giả l� ch�nh họ, v� họ l� ch�nh t�c giả, cả hai l� một, kh�ng c� sự kh�c biệt: N�y sinh vi�n ơi! Dấu xưa vết c�n chưa x�a! Trư�ng hợp của Tiến Qu�n Ca, tr�i lại, ho�n to�n kh�c hẳn. N� kh�ng được l�m cho ch�nh t�c giả, d� cho trong hồi k� Văn Cao c� n�i tới �b�ng mấy người đ�i khổ trần truồng loang tr�n mặt hồ lạnh� hay �ngọn lửa t�m sẫm bập b�ng trong những hốc mắt� hay việc �ng �đang chờ nhận một khẩu s�ng lục v� được tham gia v�o đội vũ trang�.[29] Những sự kiện n�y chỉ đến với Văn Cao sau khi �ng nhận lời của Vũ Qu� �l�m m�t b�i h�t cho qu�n dội c�ch mạng của ch�ng ta� v� khi �ng lang thang đi t�m �một c�i g� để n�i, một �m thanh đầu ti�n�. C�i g� để n�i , �m thanh đầu ti�n n�y l�c mới gặp Vũ Qu� trở lại, được Vũ Qu� giao cho c�ng t�c, được nhận trợ cấp, c� chỗ ăn cơm th�ng, chấm dứt cuộc đời lang thang, thất nghiệp v� đ�i kh�t của �ng, Văn Cao kh�ng hề c�. Qu�n đội c�ch mạng cho tới thời điểm đ� chỉ mới l� của Vũ Qui, chưa l� của Văn Cao. Qu�n đội c�ch mạng hay �Đo�n qu�n Việt Minh� sau n�y trong Tiến Qu�n Ca l�c đ� c�n ở t�t tr�n chiến khu, Văn Cao chưa từng thấy, chưa n�i tới chuyện �ng c� phải l� một đội vi�n của n� hay kh�ng. Chuyện �ng nhận đươọc khẩu s�ng v� được tham gia v�o đội vũ trang mới chỉ l� chuyện �ng đang chờ. C�u hỏi được đặt ra l� nếu vậy l�m sao b�i h�t n�y lại được phổ biến nhanh như vậy? C�u trả lời rất đơn giản : đ� l� nhờ guồng m�y tuy�n truyền của Việt Minh thời đ� rồi sau n�y l� của ch�nh quyền khi n� trở th�nh quốc ca của nước Việt Nam D�n Chủ Cộng Ho� do Hồ Ch� Minh l�m Chủ Tịch. N� c�ch kh�c, t�c giả v� đối tượng của Tiến Qu�n Ca l� hai chủ thể ho�n to�n kh�c biệt, kh�ng phải l� một. Ngư�i h�t cũng vậy. Kh�ng c� c�i may mắn của cả Lưu Hữu Phước v� Văn Cao, Tr�c Hồ khi l�m Đ�p Lời S�ng N�i kh�ng c� một đối tượng r� r�ng như hai t�c giả tiền bối của �ng. Khi t�c giả mới lớn l�n, từ c�c trường thuộc bậc tiểu học đến trường Petrus K� m� �ng đ� theo học, như đ� n�i ở tr�n, đều đ� kh�ng c�n nữa, kể cả c�i t�n Petrus Trương Vĩnh K�. T�n n�y sau năm 1975 đ� bị thay thế bằng t�n L� Hồng Phong lạ hoắc. C�c th�y c� cũ nhiều người cũng đ� ra đi hay kh�ng c�n được dạy nữa. Họ đ� bị thay thế bằng những th�y c� từ miền Bắc v�, những người từ lời n�i, c�ch đối xử đến kiến thức v� c�ch dạy kh�c hẳn c�c th�y c� cũ. Người ta kh�ng r� l� Tr�c Hồ đ� bị ngỡ ng�ng, trơ trọi v� c� đơn như thế n�o, nhưng chắc chắn những mất m�t đầu đời n�y đ� �m ảnh �ng suốt đời, từ đ� đ� ảnh hưởng tới �m nhạc của �ng. Kh�ng c�n trường v� bạn học nhưng Tr�c Hồ vẫn c�n anh em, bạn b� v� nhất l� vẫn c�n những người th�y dạy nhạc cũ. Mạnh hơn nữa l� những g� đ� xảy ra ở Biển Đ�ng trong thập ni�n đầu của thế kỷ 21, đặc biệt l� sự săn đuổi, bắt giữ đ�i tiền chuộc, đ�nh đập, l�m nhục c�c ngư d�n Việt Nam của c�c tầu hải tuần của Trung Cộng m� b�o ch�, truyền h�nh, truyền thanh v� tin tức tr�n mạng đ� đến với người Việt gần như h�ng ng�y. Tất cả đ� gợi lại trong tr� nhớ của mọi ngườ� về cuộc x�m chiến Ho�ng Sa năm 1974 v� sau đ� l� một số đảo ở Trường Sa v�o năm 1988 của Trung Cộng. Theo Tr�c Hồ t�m t�nh với người viết, sự hy sinh của Hải Qu�n Thiếu T� Ngụy Văn Th� v� 74 chiến hữu của �ng cũng như sau n�y của 64 chiến sĩ Hải Qu�n kh�c, đ� trực tiếp th�c đẩy �ng l�m Đ�p Lời S�ng N�i. �ng đ� kh�ng mở đầu b�i h�t của m�nh bằng lời k�u gọi m� bằng lời rủ anh em, bạn b� th�n thiết của m�nh v� rộng hơn, những người c�ng trang lứa với m�nh ở bất cứ nơi n�o tr�n thế giới hay ở Việt Nam �đứng l�n đ�p lời s�ng n�i!� như l� một tập thể duy nhất: �Đ�p lời s�ng n�i! Anh em ta đ�p lời s�ng n�i!� Giữa người rủ v� người được rủ ở đ�y l� một, kh�ng c� người k�u gọi v� người được k�u gọi. N�i c�ch kh�c người l�m b�i h�t, người h�t b�i h�t v� người nghe b�i h�t đều l� một. Mọi ngư�i h�a nhập với nhau kh�ng c� sự ph�n biệt giữa người nhắm v� người được nhắm tới. �Anh em ta�!� so với �N�y sinh vi�n ơi!� tuy c� giống nhau nhưng đ� vượt xa hơn một bực. Kh�ng dừng ở đ�, Tr�c Hồ vươn tới �mu�n triệu con tim, mu�n triệu khối �c c�ng d�ng m�u Việt Nam� hay trong một b�i kh�c � những tr�i tim gọi Việt Nam, những tr�i tim c�ng d�ng m�u�: �Tựa v�o l�ng nhau, ơi những tr�i tim gọi
ViệtNam! Khả năng hấp dẫn hay hấp lực hay sự quyến rũ của Đ�p Lời S�ng N�i v� đương nhi�n Tiếng gọi Sinh Vi�n nằm ở điểm n�y, điểm m� Tiến Qu�n Ca kh�ng c�. Đối tượng của b�i h�t của Văn Cao kh�ng phải l� Văn Cao hay những người chung quanh Văn Cao m� l� một tập thể những người �ng chưa bao giờ gặp hay nh�n thấy. L� do ho�n to�n đơn giản: �ng đ� l�m theo �đơn đặt h�ng�. Người ta c� thể viện dẫn những người �đ�i khổ trần truồng loang tr�n mặt hồ lạnh� m� �ng đ� bắt gặp khi đi lang thang t�m hứng sau khi nhận lời với Vũ Qu�, hay chuyện �ng sắp nhận được khẩu s�ng �v� được tham gia v�o đội vũ trang�, coi như l� một danh dự v� l� niềm h�nh diện của �ng, để biện minh phần n�o, nhưng tất cả vẫn chỉ l� gượng �p. Đối tượng ch�nh của b�i h�t của �ng vẫn l� những Đội Tuy�n Truyền Giải Ph�ng Qu�n mới đưọc th�nh lập ở một nơi xa tắp n�o đ�, tr�n tận chiến khu. �Đo�n qu�n Việt Minh đi�� chỉ l� do tr� tượng của �ng cũng như �bước ch�n dồn vang tr�n đường gập ghềnh xa� của họ. Kh�ng thấy họ, Văn Cao kh�ng thể n�o k�u gọi họ. Họ đ� c� trước rồi n�n �ng chỉ c� thể ngưỡng mộ họ v� ca ngợi họ bằng những lời lẽ m� những c�n bộ tiếp x�c với �ng v� giao c�ng t�c cho �ng đ� hướng dẫn cho �ng như �cứu quốc�, �cờ in m�u�, �chiến khu�, �phanh th�y uống m�u qu�n th��, �sao v�ng phất phới�� thay v� bằng những ng�n từ đẹp, đầy l�ng mạn t�nh v� nặng về ho�i cổ của Buồn T�n Thu, Thi�n Thai, Suối Mơ, Trương Chi, hay �t ra l� Thăng Long H�nh Kh�c� của �ng trước đ�. Văn Cao cũng kh�ng d�nh cho lịch sử một chỗ đứng trong b�i h�t của �ng, b�i h�t cho qu�n đội c�ch mạng. L� do phải chăng l� v� đối tượng ch�nh phải l� c�ch mạng, phải mang chiến đấu t�nh, phải c� qu�n th�, giết qu�n th� v� chiến thắng qu�n th�� v� nhất l� phải bỏ lại sau lưng những c�i cũ. Cũng l� chiến đấu cho người Việt Nam nhưng �ng kh�ng hề nhắc tới truyền thống h�o h�ng ng�n năm của D�n Tộc Việt Nam. Những t�n tuổi quen thuộc đối với giới trẻ đương thời như Hai B� Trưng, B� Triệu, Ng� Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, L� Thường Khiệt, Trần Hưng Đạo, L� Lợi, Quang Trung�, những địa danh như M� Linh, S�ng H�t, Bạch Đằng, Chi Lăng Đống Đa� m� Lưu Hữu Phước, Ho�ng Qu�, Thẩm O�nh, L� Thương v� nhiền nhạc sĩ thuộc thế hệ sau của �ng tr�n trọng ngợi ca ho�n to�n kh�ng được nhắc tới trong b�i h�t n�y của �ng. Tất cả đều phải chăng kh�ng cần thiết, nếu kh�ng n�i l� kh�ng được n�i tới v� đo�n qu�n Việt Minh l� đủ v� l� khởi đầu. Sau n�y, qua Đ�n Chim Việt, Chiến Sĩ Việt Nam. Bắc Sơn, L�ng T�i, S�ng L�, Ng�y M�a, Tiến Về H� Nội, Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch, Kh�ng Qu�n Việt Nam, Hải Qu�n Việt Nam� c�c t�n tuổi của Lịch Sử Việt Nam v� c�c địa danh li�n hệ, sau Thăng Long H�nh Kh�c, G� Đống Đa ho�n to�n vắng b�ng, nhường chỗ cho những t�n lần đầu ti�n xuất hiện như Đ� Lương, Bắc Sơn, Th�i Nguy�n, Hồ Chủ Tịch, Gi� Hồ� Lưu Hữu Phước v� Tr�c Hồ ho�n to�n tr�i ngược với Văn Cao. Hai nhạc sĩ n�y đ� lấy lịch sử của d�n tộc l�m khởi đầu v� l� nguồn căn bản cho những s�ng t�c của m�nh. Như đ� n�i ở tr�n, cuộc đời s�ng tạo về �m nhạc của Lưu Hữu Phước bắt đầu bằng sự kh�m ph� ra qu� khứ của tổ ti�n xa xưa nhất của �ng, ngay từ ng�y �ng c�n l� học sinh ở Saigon, sau đ� l� khi �ng c�ng với c�c bạn sinh vi�n c�ng qu� hương Miền Nam với �ng thăm viếng những di t�ch lịch sử ở miền Bắc, nơi ph�t xuất của d�n tộc �ng. N�i c�ch kh�c tất cả đd� khỏi đầu khi hồn thi�ng của s�ng n�i v� anh linh của tổ ti�n của d�n tộc đ� trỗi dậy trong l�ng �ng. Ba lời ca của Tiếng Gọi Sinh Vi�n sau n�y đ� trở th�nh những b�i học lịch sử m� kh�ng �t những người dạy lịch sử, văn h�a v� đạo đức d�n tộc cho tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại đ� d�ng. Tất cả những t�n tuổi lớn của nhiều ng�n năm của lịch sử d�n tộc kể tr�n đều được trực tiếp hay gi�n tiếp l�m sống lại trong những lời ca n�y, b�n cạnh những danh xưng kh�c như Hồ T�y, N�� Lam� Lịch sử Việt Nam v� c�c t�n tuổi lớn của qu� khứ đấu tranh để bảo vệ đất nước, vinh quang v� sự trường tồn của d�n tộc cũng l� nguồn cảm hứng mạnh mẽ v� phong ph� cho Tr�c Hồ khi người nhạc sĩ trẻ tuổi của Cộng Đồng Việt Nam ở Hải Ngoại n�y l�m những b�i ca cho qu� hương của m�nh, m� Đ�p Lời S�ng N�i chỉ l� điển h�nh. Tất cả đ� bắt đầu bởi hai tiếng Việt Nam. Phải dời Việt Nam ra đi từ thời c�n nhỏ, sống xa l�a qu� hương, x�m l�ng, cha mẹ, th�y c�, bạn b�hai tiếng Việt Nam đ� trở th�nh một �m ảnh kh�ng dời đối với �ng. Trong Đ�p Lời S�ng N�i, Việt Nam đ� được �ng nhắc tới bốn lần, một lần ở giữa b�i v� ba lần li�n tiếp được lập lại để kế th�c. T�n Việt Nam cũng được �ng d�ng trong nhan đề của nhiều b�i h�t kh�c của �ng như Một Ng�y Việt Nam, Bước Ch�n Việt Nam, Con Đường Việt Nam v� trong nội dung của phần lớn c�c b�i h�t của �ng. Đối với �ng cũng như đối với Trầm Tử Thi�ng, Việt Dũng, Anh Bằng�, những đồng t�c giả với �ng cho nhiều b�i h�t, Việt Nam l� hai tiếng thi�ng li�ng gắn liền với cuộc đời tị nạn của �ng. Tr�c Hồ đ� gửi tới người h�t, người nghe v� c� thể ch�nh m�nh lời nhắn nhủ �d� nhục, d� vinh, xin h�y h�t vang lời Việt Nam� để �Bạn h�y c�ng t�i! Bước theo ngọn đuốc Việt Nam!� Cuối c�ng, qua Tiến Qu�n Ca, người ta thấy Văn Cao đ� kh�ng mở ra được một viễn ảnh, kh�ng đem lại một �nh s�ng mới, một ch�n trời mới cho những chiến sĩ của đo�n qu�n Việt Minh, chưa n�i tới đồng b�o đương th�i của họ, đất nước v� d�n tộc của họ. �ng chỉ k�u gọi họ �thề phanh th�y uống m�u qu�n th��, �thắng gian lao�, �lập chiến khu� để rồi �tiến l�n c�ng th�t l�n!� v� �ch� trai� l� ở đ�, �l� đ�y nơi ước nguyền�. C�i đ�ch cuối c�ng m� �ng vạch ra cho họ l� ở đ�, ước nguyền m� �ng n� l�n cho họ l� ở đ�, ở chiến khu để họ m�i m�i tiến l�n c�ng th�t l�n� Chấm hết! Tất nhi�n l� ở giai đoạn Văn Cao viết Tiến Qu�n Ca như một người nh�n từ b�n ngo�i v� cho giai đoạn �ng được y�u cầu s�ng t�c v� s�ng t�c theo chỉ thị, �ng kh�ng thể l�m hơn được. Nhưng về sau n�y, v� b�i h�t đ� trở th�nh quốc ca n�n định mệnh của d�n tộc cũng nằm ở đ�, ở chiến khu, chiến khu từ sau khi n� trở th�nh quốc ca v� cả nước trở th�nh chiến khu ngay từ cuối năm 1946, rồi li�n tiếp sau nhiều thập ni�n tiếp theo, c� thể lu�n cả đến những ng�y hiện tại, trong tương lai gần, khi người ta, một lần nữa, n�i tới hiểm họa mất nước, hiểm họa đến từ ngo�i khơi hay hiểm họa xảy ra ngay tr�n đất liền, cuối c�ng vẫn chỉ l� chiến khu, l� nơi �ch� trai� của người Việt đ� �ước nguyền�, đến độ hậu duệ của �ng, Tr�c Hồ v� Trầm Tử Thi�ng phải l�n tiếng th� thảm k�u than: Từng v�ng tử sinh quay thấm tho�t cũng v�i ng�n
năm. Lưu Hữu Phước v� những đồng t�c giả của �ng hiền l�nh hơn, b�nh thường hơn, chỉ k�u gọi tập thể sinh vi�n �đứng l�n đ�p lời s�ng n�i�, c�ng nhau đồng l�ng �mở đường khai lối� cho đồng b�o , đừng qu�n kh� ph�ch của tiền nh�n với ư�c mong một �ng�y vẻ vang� sẽ đến để người nước Nam vang tiếng đến �mu�n đời�. Ước vọng chung của họ l� đất nước quang vinh v� trường tồn. Sau n�ỳ khi trở th�nh quốc ca, ước vọng n�y được n�u l�n một c�ch r� rệt hơn với hai c�u ba v� bốn được đổi th�nh �V� tương lai quốc d�n, c�ng x�ng pha kh�i t�n, hầu l�m cho Ngo�i ra một chi tiết ta kh�ng cũng n�n bỏ s�t l� khi Tiếng Gọi Sinh Vi�n được đổi th�nh quốc ca, hai c�u �Hồn thanh xu�n như gương trong s�ng, đừng tiếc m�u n�ng t�i xin r�ng!� đ� được đổi th�nh �D� cho phơi th�y tr�n gươm gi�o, th� nước lấy m�u đ�o đem b�o.� Qua hai c�u được đổi th�nh n�y �th�y� v� �m�u� đ� được n�i tới nhưng th�y v� m�u ở đ�y kh�ng đồng nghĩa với th�y v� m�u trong Tiến Qu�n Ca, kh�ng phải th�y v� m�u của qu�n th� m� l� th�y v� m�u của ch�nh người c�ng d�n đổ ra để bảo vệ qu� hương, đất nước, để l�m �tươi thắm cỏ hoa� tr�n c�nh đồng chung của cả d�n tộc, như H�ng L�n, một nhạc sĩ đồng thời với Văn Cao v� Lưu Hữu Phước, đ� viết trong Việt Nam Minh Ch�u Trời Đ�ng của �ng, �Non s�ng như gấm hoa uy linh một phương� v� như lối n�i b�nh thường trong ng�n ngữ quen thuộc của người Việt �đem m�u xương x�y đắp sơn h�� hay đem m�u đ�o t� thắm non s�ng�� Trong Đ�p Lời S�ng N�i, Tr�c Hồ kh�ng n�i l�n ước vọng của m�nh cũng như ước vọng chung của cả d�n tộc so với Lưu Hữu Phước trong Tiếng Gọi Sinh Vi�n. Điều n�y kh�ng c� g� kh� hiểu. Đ�p Lời S�ng N�i ở đ�y l� lời k�u gọi khẩn cấp để đ�p ứng cho một t�nh trạng khẩn cấp v� k�u gọi từ Hải Ngoại trước nạn ngoại x�m mới xảy ra ở Biển Đ�ng. Trong những b�i h�t kh�c, người nhạc sĩ thuộc thế hệ một rưỡi của Cộng Đồng Người Việt Di Tản đ� n�i l�n ước vọng đ�, ước vọng Tự Do, C�ng B�nh, Nh�n �i, ước vọng nước Việt ng�y mai ngời s�ng. Điển h�nh l� b�i Thi�n Thần Trong B�ng Tối m� người viết ghi nguy�n văn dưới đ�y, thay cho phần kết luận: Từ khi t�i ch�o đời, bập bẹ hai tiếng Việt Nam.
Bạn h�y c�ng t�i, thắp l�n ngọn đuốc Việt Nam! Những thi�n thần trong b�ng tối, California, những ng�y trở lạnh sau Tết Ma Quỷ 2011 � Phạm Cao Dương
|